Đàn Hương Hình

Chương 22 :

Ngày đăng: 18:10 19/04/20


Im ắng một lát, ông Hai thấp thỏm ngó ra ngoài, sợ có người nghe trộm, ông hạ giọng nói:



-Có chuyện đáng sợ hơn, các vị muốn nghe không?



Mọi người nhìn chằm chằm vào miệng ông Hai đợi nghe kể, không ai nói gì.



Ông Hai nhìn quanh, vẻ bí hiểm:



-Ông bạn thân của ta, tiên sinh Vương Vũ Đình, người Bái Nhiên, làm trợ

tá phủ đường Giao Châu, gần đây tiếp nhận mấy chục vụ án kỳ lạ; rất

nhiều đàn ông khi ngủ dậy thấy đuôi sam đã bị cắt cụt.



Mọi người kinh ngạc, không ai dám hỏi gì thêm, chỉ dỏng tai nghe ông Hai kể tiếp:



-Những người bị cắt đuôi sam, thoạt tiên đầu váng mắt hoa, tay chân bải

hoải, tiếp theo là tinh thần thảng thốt, nói năng lảm nhảm, thế là tàn

đời! – Ông Hai nói – Thuốc mấy cũng không khỏi, vì rằng đây không phải

bệnh trong người.



-Chẳng lẽ lại có phong trào tóc dài? – Cậu cả Ngô nói – Tiểu nhân nghe người già kể, những năm thời Hàm Phong, quân

tóc dài đánh lên phía Bắc, cắt đuôi sam trước, chém đầu sau.



-Không phải, không phải! – Ông Hai nói – Lần này là do bọn truyền giáo Đức giở trò ma thuật.



Tú tài Khúc băn khoăn:



-Cắt đi bấy nhiêu đuôi sam dùng vào việc gì?



-Cổ hủ quá! – Ông Hai tỏ vẻ không bằng lòng – Ông tưởng người ta cần cái đuôi sam của ông chắc? Người ta cần là cần linh hồn ông. Vì sao những

người bị cắt đuôi sam lại bị chứng bệnh như vậy? chẳng phải bệnh tâm hần thì là bệnh gì?



-Ông Hai, tui vẫn có chỗ chưa rõ – Tú tài nói – Người Đức bắt đi bấy nhiêu linh hồn để làm gì?



Ông Hai cười nhạt, không trả lời.



-Ông Hai, tiểu nhân đã hiểu, chắc hẳn chuyện này liên quan đến đường sắt.



-Cậu cả thông minh! – Ông Hai hạ giọng, vẻ bí mật – Chuyện này không

được nói lung tung. Người Đức dùng đuôi sam lót đường ray, mỗi thanh ray là một đuôi sam, mỗi đuôi sam là một linh hồn, mỗi ling hồn là một

người đàn ông khỏe mạnh. Các vị thử nghĩ coi, xe lửa là một đống sắt

nặng hàng chục vạn cân, nó không uống nước, không ăn cỏ, vậy mà chạy

băng băng! sức mạnh ấy từ đâu mà ra? Các vị thử nghĩ xem.



Mọi

người ngớ ra, im như thóc. Các ấm siêu trong bếp rít còi lanh lảnh. Mọi

người linh cảm có cái gì đó cực kỳ khủng khiếp ấy sắp xảy ra, gáy lạnh

toát, hình như có cái kéo rình mò phía sau lưng.



Giữa lúc mọi

người đang lo lắng cho cái đuôi sam sau gáy, chú giúp việc ở hiệu thuốc

trên trấn hớt hải chạy tới, thở hồng hộc, nói đứt quãng:



-Bác

chủ quán… không hay rồi… Ông chủ sai cháu báo bác biết, kỹ sư Đức đang

làm nhục bác gái trên trấn… Ông chủ bảo bác lên ngay, để muộn lôi thôi

to!



Tôn Bính thất kinh, đánh rơi cái ấm, nước sôi bắn tung tóe,

hơi nước mù mịt. Tiếp theo là lửa giận bừng bừng đốt cháy toàn thân.

Khách hàng đều nhìn thấy cái cằm đầy những sẹo của ông co giật dữ dội,

vẻ mặt thanh thản vỗ cánh bay đi, ở lại là bộ mặt hung thần ác quỉ. Tay

phải tì mặt quầy, dướn mình lên như chuẩn bị bay, ông vọt ra đường,

thuận tay vớ lấy cây gập chèn cửa bằng gỗ táo.



Khách uống trà

cũng bị kích động, ồn ào như vỡ chợ. Mọi người đang bàng hoàng về chuyện chuyện cắt đuôi sam, đột nhiên được tin người Đức hạ nhục phụ nữ Trung

Quốc, thế là nỗi sợ biến thành cơn giận. Sự bất bình chất chứa bấy nay,

từ khi người Đức làm đường sắt Giao – Tế, cuối cùng trở thành hận thù.

Tính khì người Cao Mật tiềm ẩn trong mỗi con người bùng nổ, lửa giận

bừng bừng, bất kể sống chết, gầm thét chạy theo Tôn Bính ra chợ.
cây đèn lồng rồng rắn nối nhau trên phố, chuyển động như bay về phía nhà ông.



Dòng nước mắt nóng hổi ứa ra từ đôi mắt ông.



Những ngày sau đó, theo kinh nghiệm của người già, ban ngày ông lánh sang

rặng liễu bên kia sông, nơi có mấy nấm nhà đắp bằng đất dùng để sấy

thuốc lá. Ban đêm yên ắng, vắng người qua lại, ông mới bơi qua sông, lẻn về nhà. Sáng tinh mơ hôm sau, nhét bánh vào bao, lấy nước vào hồ lô,

ông lại sang chỗ ẩn nấp.



Trên mấy cây liễu to gần kề, có tổ chim khách. Ông nằm trên giường đất, ăn rồi lại ngủ, ngủ dậy lại ăn, ban đầu ông không dám ra khỏi nhà, dần dà ông lơi cảnh giác. Ông ra chỗ gốc cây xem bọn chim khách cãi nhau. Một thanh niên chăn dê, vóc người cao to,

kết bạn với ông. Cậu ta tên là Mộc Độc, hiền lành, không giỏi giang gì.

Ông đưa bánh cho Mộc Độc ăn, đồng thời nói mình là Tôn Bính, người đánh

chết tên kỹ sư Đức.



Ngày mồng bảy tháng Hai, tức là ngày thứ năm sau khi tên Đức bị đánh chết. Buổi trưa. Ông ăn mấy cái bánh tráng,

uống một bát nước lạnh, nằm trên giường nghe đám chi khách líu ríu và

con gõ kiến mổ cây làm tổ, mơ màng nửa thức nửa ngủ. Bỗng từ bên kia

sông vọng lại tiếng súng nổ chát chúa. Lần đầu tiên trong đời, ông nghe

thấy tiếng nổ của loại súng khai hậu, bắn nhanh, khác xa tiếng nổ của

súng bản địa. Tim ông nhói một cái, hiểu rằng đại sự thế là đã hỏng. Ông nhảy xuống đất, cầm lấy cây gậy gỗ táo, nấp sau cánh cửa cũ nát, đợi kẻ thù. Lập tức mấy tiếng nổ đanh nhưng vẫn từ bên kia sông vọng tới. Ông

không thể cứ ở trong nhà được nữa, bèn lẩn ra ngoài, lom khom vượt qua

mấy bức tường đổ, chạy vào rừng liễu. Ông nghe bên trấn Mã Tang, tiếng

vợ khóc, tiếng con gào, tiếng ngựa hí, tiếng lừa kêu, tiếng chó sủa,

cùng dậy lên, nhưng không thể nhìn thấy cái gì. Cái khó ló cái khôn, ông giắt gậy vào cạp quần, trèo lên cây liễu cao nhất. Lũ chim khách bị phá rối, từng đàn từng lũ tấn công ông quyết liệt. Ông khua gậy đuổi chúng

đi, hết đợt này đến đợt khác. Ông đứng bên một cái tổ to bự của chim

khách, tay vịn chạc cây, nhìn sang bên kia sông. Tình hình bên trấn lần

lượt diễn ra trước mắt ông.



Ông trông thấy, có đến bốn mươi chín con ngựa tây cao to đứng rải rác trên khoảng đất trống cửa nhà ông, bọn lính tây quần áo rực rỡ, đầu đội mũ ống cài lông chim, tay cầm súng màu xanh đen lắp lưỡi lê, nhằm cửa ra vào và cửa sổ nhà ông mà bắn. Từng

đám khói trắng phụt ra từ đầu nòng như từng chuỗi bông cúc nhỏ, rất lâu

mới tan. Những cúc áo bằng đồng, và những lưỡi lê bằng thép, sáng loáng

dưới nắng. Đứng đằng sau đám lính tây, là bọn lính dõng nhà Thanh, đầu

đội nón có tua đỏ, trước ngực sau lưng đáp thêm miếng tròn bằng và

trắng. Mắt ông mờ đi, cây gậy tuột khỏi tay, va đập vào cành cây trước

khi rơi xuống đất. May mà tay ông bám chắc chạc cây, không bị ngã theo.



Lòng như lửa đốt, ông biết đại họa đã thực sự giáng xuống, nhưng trong lòng

còn le lói chút hi vọng, đó là trông mong vào tài diễn xuất của vợ, nhất là những vai giả dại. Bọn Đức rồi sẽ nhưng đám lính dõng, náo loạn một

hồi rồi tay không ra về. Cũng đúng vào lúc này ông quyết định, qua được

đận này, ông sẽ đưa vợ con đi thật xa.



Điều kinh khủng nhất đã

xảy ra. Ông trông thấy hai tên lính Đức kẹp chặt hai tay vợ ông, lôi lên đê. Vợ ông gào lên, hai chân kéo lê trên mặt đất. Hai đứa trẻ, bị một

tên Đức hộ pháp cầm chân xách ngược như người ta xách gà xách vịt, đem

lên mặt đê. Chú Thạch Đầu tuột khỏi tay một lính Đức, hình như còn cắn

nó một miếng. Ông trông thấy cái thân hình bé nhỏ và đen thủi của Thạch

Đầu cứ lùi, lùi nữa, cho đến khi lưng chú chạm mũi lê của thằng lính Đức đứng sau, lưỡi lê lóe sáng dưới nắng, xuyên qua người chú.



Hình như chú kêu lên một tiếng, hình như chẳng có tiếng kêu gào nào phát ra, như một quả bóng màu đen, chú lăn lông lốc xuống sông. Tôn Bính dán

mình trên cây, mắt tối sầm khi nhìn thấy bãi máu trên đê.



Bọn

Đức đã rút hết lên mặt đê, có tên quì một chân, tên thì đứng, nâng súng

nhằm bắn người trong trấn. Chúng bắn rất chuẩn, gần như mỗi phát là một

người gục xuống hoặc bật ngửa, trên đường cũng như trong sân. Quân Thanh cầm đuốc đốt nhà ông. Lúc đầu khói đùn lên như một cái cây vươn thẳng

lên trời, tiếp theo là đám lửa phừng phừng màu vàng kim. Ngọn lửa reo

phần phật, nổ ran như pháo tép. Đột nhiên trời nổi gió to, khói lửa ngả

nghiêng hết đông sang tây, mùi khét, mùi bụi đất bay tới trước mặt ông.



Chuyện càng kinh khủng hơn đã xảy ra. Ông trông thấy lính Đức giằng kéo vợ ông đến quần áo rách bươm, cuối cùng, vợ ông không còn mảnh vải che thân…

Ông đập trán vào cành cây đến tóe máu, miệng cắn ngập vỏ. Trái tim ông

như quả cầu lửa bay sang bờ bên kia, còn cơ thể ông thì như trói chặt

vào thân cây, cứng đờ như đã chết. Người Đức cầm tay chân đánh võng cái

cơ thể trắng phau của vợ ông rồi lẳng xuống dòng sông Mã Tang, không một tiếng động, nước sông im lặng tung bọt trắng, vợ ông chìm ghỉm. Cuối

cùng, lính Đức dùng lưỡi lê xộc hai con ông cũng quẳng xuống sông. Trước mắt ông toàn một màu máu, ông như bị ma ám trong cơn ác mộng, lòng như

lửa đốt, tay chân cứng đờ. Ông cố sức vùng vẫy, cuối cùng bật ra được

một tiếng kêu, cơ thể được giải phóng. Ông cố sức chồm lên làm gãy mấy

cành cây, rồi nặng nề rơi xuống cát ẩm.