Đàn Hương Hình
Chương 32 :
Ngày đăng: 18:10 19/04/20
Người bảo em là thuốc bệnh của người, em bảo người là thuốc phiện của
em. Người sắp chết trong công đường, em sắp chết ngoài công đường. Trong công đường, người do nhiều nguyên nhân mà chết, em chẳng qua chỉ là một nguyên nhân. Ngoài công đường, em chỉ một nguyên nhân, vì người mà
chết. Em chết người còn sống, người chỉ khóc ba hôm; người chết em còn
sống, em khóc cả cuộc đời. Người chết, thực tình em cũng chết. Cuộc trao đổi mua bán không công bằng, vậy mà em vẫn cứ làm. Em là con chó cún
của người, chỉ cần người huýt một sáo tiếng sáo miệng là em chạy tới, mà vẫy đuôi, mà nhảy múa, mà liếm giầy của người. Em biết người yêu em như con mèo đói yêu con cá diếc hoa; em yêu người như con chim non yêu cái
cây mà nó trú ngụ; em yêu người đến nỗi mặt trơ trán bóng, vì người mà
liêm sỉ không còn; em không ý chí, không tiền đồ; em không kìm được bước chân, càng không giữ được con tim. Vì người mà em dám nhạy vào rừng dao biển lửa, bỏ ngoài tai miệng thế xì xào. Từ miệng bọn trẻ, em biết phu
nhân không cho em vào thăm người. Em biết phu nhân xuất thân nơi quyền
quý, đầy óc mưu lược, đầy bụng kinh luân, nếu là trai, ắt từ lân nên bậc đại nhân của hoàng triều. Em biết, em là con gái một kép hát, vợ một đồ tể, không bao giờ là đối thủ của phu nhân, nhưng em là một người mù vào cổng. Cổng đóng thì em cụng vỡ đầu, cổng mở thì em gặp vận hên. Em bất
cần ngàn điều quy tắc, vạn điều cấm kỵ, cổng chính không cho vào thì em
đi cổng hậu, cổng hậu không cho em vào thì em đi cổng ngách, cổng ngách
không cho em vào thì em leo cây trèo tường. Em quanh quẩn cả một ngày ở
tường hậu nha môn, em sẽ vào nhà bằng lối ấy…
Trăng thượng tuần
soi tỏ tường hậu nha môn, bên trong là vườn hoa, thường ngày quan huyện
và phu nhân đi dạo, thưởng hoa ở đó. Cây du cổ thụ vươn một cành to ra
ngoài, vỏ cấy lấp lánh như vẩy rồng, vẩy rồng lấp lánh là cành cây tươi. Nàng kiễng chân với tới cành cây, tay chạm vỏ cây lạnh toát, khiến nàng nghĩ tới loài rắn. Cảnh đi tìm rắn phủ nhau trong lúc thần hồn điên đảo đên cách đây mấy năm lại trở về trong đầu, khiến tim nàng đau nhói và
cảm thấy nhục nhã. Ông lớn ơi là ông lớn, em cơ khổ vì yêu ông, bao nỗi
đắng cay ông nào có biết? Phu nhân của ông con nhà khuê các, hậu duệ
danh thần, làm sao hiểu nổi tâm tình của em? Phu nhân, tui không hề có ý cướp chồng phu nhân, tui đúng ra là vật tế thần chốn miếu đường, tình
nguyện hiến thân cho thần hưởng dụng. Phu nhân, lẽ nào bà chẳng thấy, vì có tui, phu quân của bà chẳng khác mạ héo gặp mưa xuân? Phu nhân, nếu
bà là con người khoan dung độ lượng, thì nên ủng hộ tui cùng quan huyện; nếu bà thấu tình đạt lý thì không nên ngăn cản tui vào nha môn. Phu
nhân à, bà ngăn cũng bằng thừa, bà có thể ngăn Đường Tăng, Sa Tăng, Tôn
Ngộ Không đi Tây Trúc lấy kinh, không ngăn nổi Mi Nương vào nha môn thăm Tiền Đinh! Danh tiếng Tiền Đinh, thân phận Tiền Đinh, của cải Tiền Đinh do bà nắm; thân thể Tiền Đinh, hơi thở Tiền Đinh, mồ hôi Tiền Đinh là
của tui. Phu nhân, Mi Nương tui từ nhỏ theo cha múa may trên sân khấu,
dẫu chưa nhẹ nhàng như cánh én, cũng chắc chân mạnh tay; dẫu chưa vượt
mái bay tường, leo cây bám cành đã giỏi. Tục ngữ có câu, chó cùng dứt
giậu, mèo cùng leo cây. Mi Nương tui dù không phải chó mèo, cũng có thể
leo cây vượt tường. Chẳng qua là tui tự khinh mình, để đến nỗi âm dương
điên đảo; không bắt chước Oanh Oanh đợi trăng dưới mái tây hiên, lại làm như Trương Quân Thụy vượt tường đêm vắng. Quân Thụy vượt tường gặp Oanh Oanh, Mi Nương vượt tường gặp Tiền Đinh, chẳng hiểu mươi mười năm sau,
ai soạn vở Phản Tây Hiên này? Nàng lui lại hai bước, thắt chặt dây lưng, tém gọn vạt áo, thư giãn chân tay vài cái, hít vào một hơi dài, rồi
nhảy vọt lên, hai tay bám chắc vào cành cây. Cành cây rung lên, cón cú
mèo hoảng sợ kêu lên một tiếng, rồi nhẹ nhàng không một tiếng động, bay
vào bên trong nha môn. Cú mèo là giống chim ông lớn rất thích. Trong sân kho lương thực của huyện, có đến hàng chục con cú mèo đậu trên cây hòe, ông lớn bảo chúng là thần coi kho, là khắc tinh của lũ chuột. Ông vuốt
râu, ngâm: Kho nhà quan chuột to tày đấu, trông thấy người giương mắt
đẩu đâu!… Đúng là một bụng chữ, bác cổ thông kim, ôi người mà tui yêu!
Hai tay bám chạc cây, dùng sức cánh tay hất người lên, thế là nàng vắt
vẻo trên chạc cây.
Mõ canh ba vừa điểm, bên trong yên
tĩnh. Nàng ngồi trên chạc cây nhìn vào. Nàng nhìn thấy mái đình, ngói
lưu ly lấp lánh, chiếc hồ nhỏ bên cạnh cũng lấp lánh. Tây Hoa sảnh hình
như có đèn, chắc quan huyện dưỡng bệnh ở đấy. Ông lớn ơi, em biết ông
ngóng cổ chờ em, ruột gan ông như thiêu như đốt; con người tốt bụng, xin người đừng sốt ruột, đầu tường này sẽ nhảy xuống Mi Nương! Mặc kệ phu
nhân ngồi ngay bên cạnh, trông nom ông như hổ dữ trông mồi; mặc cho roi
da vụt rách da lưng tui, tui cũng phải thăm ông bằng được.
Mi
Nương bò theo cành cây mấy bước rồi nhảy xuống đầu tường. Rồi, suốt đời
nàng không quên chuyện xảy ra sau đó: nàng bị trợt chân, rơi xuống chân
tường phía trong, ngã một cú như trời giáng, mông đau, tay sây sát, lục
phủ ngũ tạng đều chấn thương. Nàng vịn cây trúc đứng lên một cách khó
khăn, mắt nhìn Tây Hoa sảnh ánh đèn hắt ra mà trong lòng ai oán. Nàng sờ mông, thấy dính nhơm nhớp? Cái gì vậy, nàng hốt hoảng nghĩ rằng đó là
máu, giơ tay lên thì có mùi thối. Cái thứ đen sì chẳng phải cứt chó thì
là gì? Trời ạ, không biết kẻ nào táng tận lương tâm nghĩ ra cái trò độc
địa này? Làm cho Tôn Mi Nương dơ dáng dại hình như thế này? Chã lẻ cứt
chó đầy đít quần như thế này mà đi gặp ông lớn sao? Chẳng lẽ để Mi Nương xấu hổ xấu xa như thế này đi gặp quan lớn Tiền sao? Nàng nản quá, vừa
giận vừa bực. Tiền Đinh, ông ốm nữa đi, ông chết đi, ông chết để cho phu nhân của ông góa bụa, không thích ở góa thì uống thuốc độc, treo cổ xà
nhà hoặc tuẫn tiết để trở thành liệt phụ, nhân dân Cao Mật sẽ góp tiền
mua đá dựng bia tiết phụ cho phu nhân!
Nàng đi lại chỗ cây du,
ôm thân cây định leo lên, nhưng cái nhanh nhẹn chắc chắn hồi nãy đã đi
đâu cả, mỗi lần dướn lên là một lần tụt xuống, chân tay dính đầy cái thứ đen sì thối hoắc ấy. Căm chưa! Thân cây bôi đầy phân chó. Mi Nương chùi hai bàn tay xuống đất, tức chảy nước mắt. Lúc này, nàng nghe có tiếng
cười nhạt sau hòn non bộ, rồi có hai bóng người đi ra, một người cầm đèn lồng, ánh đèn đỏ quạch như đèn Hồ Tiên cứu người trong truyền thuyết.
Hai người đều mặc đồ đen, mặt che mạng, không rõ trai hay gái, tất nhiên không thể nhìn rõ mặt.
Tôn Mi Nương hốt hoảng đứng dậy, thấy
mình không còn mặt mũi nào mà nhìn người khác, nên giơ tay định bưng
Mi Nương nũng nịu giật râu quan huyện:
- Em không biết gì hết, nhưng em biết cha em vô tội.
Quan huyện thở dài:
- Sao ta không biết cha nàng vô tội? Nhưng lệnh quan không cưỡng được.
- Ông lớn hãy tha cho cha em - Mi Nương lắc lắc đầu gối quan huyện –
Đường trường của quan tri huyện mà không bảo vệ được một người dân vô
tội sao?
- Biết nói thế nào bây giờ? Cưng của ta!
Mi Nương vòng tay cổ quan huyện, đu đưa tấm thân ngà ngọc, nũng nịu:
- Em hậu tạ ông như thế này, mà vẫn không cứu được cha em sao?
- Thôi thôi, cờ đến tay ai người ấy phất, đến đâu hay đó. Mi Nương, sắp
đến tết thanh minh, ta muốn trồng một cây đu như mọi năm để nàng vui
chơi thoả thích. Ta phải đi trồng Đào kỷ niện cho dân. Mi Nương, thanh
minh năn nay vẫn diễn trò ở đây. Thanh minh sang năm ở đâu thì ta cũng
không biết?
- Ông lớn, thanh minhsang năm ông thăng Tri phủ, không còn to hơn Tri phủ.
Được tin Tôn Bính lợi dụng tết thanh minh tụ tập dân chúng phá đường sắt,
đốt lều trại người Đức, quan huyện bị hẫng. Ông vứt xẻng, lẳng lặng chui vào kiệu. Ông hiểu, quan vận của ông đã kết thúc.
Quan huyện trở về huyện lỵ, nói với các thơ biện, thơ lại đứng vây xung quyanh:
- Các ông, con đường quan hoạn của bản chức coi như kết thúc. Ông nào
muốn tiếp tục làm việc thì ở lại đợi quan huyện mới, ông nào không muốn
làm nữa thì nhân lúc này tự lo cho mình.
Mọi người nhìn nhau, nhất thời không ai nói gì.
Quan huyện cười buồn, trở về phòng văn thư đóng sập cửa, khoá trái.
Mọi người giật mình vì tiếng khóa trái, ai nấy ngơ ngác, thẫn thờ như mất
hồn. Viên thơ lại phụ trách hậu cần ra chỗ cửa sổ, nói vọng sang:
- Bẩm ông lớn, tục ngữ có câu “Giặc chặn, nước ngăn”, chuyện gì cũng có cách giải quyết, ông lớn nên nghĩ thoáng một chút.
Phòng trong, quan huyện không nói gì.
Thơ lại phụ trách hậu cần nói nhỏ với Xuân Sinh:
- Chạy mau vào báo với phu nhân, chậm là hỏng việc.
Quan huyện cởi quan phục vứt xuống đất, lột mũ quẳng vào xó nhà. Ông nói một mình:
“Không làm quan nhẹ xác, không đội mũ nhẹ đầu. Muôn tâu Hoàng thượng, Thái
Hậu, thần không thể tận trung được nữa, Viên đại nhân, Đàm đại nhân, Tào đại nhân, ti chức không thể tận chức được nữa, Mi Nương, người thân
thiết của ta, ta không thể vui vẻ đến cùng với nàng, Tôn Bính, tên mạt
rệp, bản quan không còn mắc lỗi với nhà ngươi!”.
Quan huyện đứng trên ghế đẩu, cởi thắt lưng lụa vắt lên xà nhà làm thành cái thòng lọng rồi chui đầu vào, gạt hết râu ra phía ngoài cho rủ xuống ngực. Từ
ngưỡng trên cửa sổ, qua những lỗ thủng trên giấy dán do chim sẻ gây ra,
ông trông thấy trời mây u ám và những sợi mưa phùn màu bạc, trông thấy
các thư biện, thơ lại, các đội viên truy bắt… đứng như trời trồng không
chịu giải tán, trông thấy những con chim én tha bùn đắp tổ dưới mái hiên tây Hoa sảnh. Mưa phùn rỉ rả, chim én líu ríu, thấm dẫn hương sắc của
cuộc sống. Cái lạnh của mùa xuân khiến ông cảm thấy gai gai trên da
thịt, cơ thể ấm áp của Mi Nương thoát cái chiếm trọn thân xác và tâm hồn ông. Mỗi tấc da thịt trên người ông đều khát khao nàng. Ôi, người đàn
bà của ta, nàng sao mà kỳ lạ, sao mà mỹ miều, biết chắc rằng, tiền đồ
của ta sẽ bị hủy hoại trên tấm thân nàng… Quan huyện biết rằng, nghĩ nữa sẽ mất hết dũng khí từ biệt cuộc đời, thế là ông nghiến răng đạp đổ cái ghế. Trong cơn hoảng loạn, ông nghe có tiếng phụ nữ la thất thanh, phu
nhân đến rồi sao? Mi Nương đến rồi sao? Ông thoáng ân hận, cố níu kéo
cái gì đó, nhưng cánh tay đã mềm nhũn.