Đàn Hương Hình
Chương 42 :
Ngày đăng: 18:10 19/04/20
Vào những năm Ung Chính, một quái kiệt có tên Thường Mậu đến vùng Đông
Bắc Cao Mật ta. Ông không vợ con, một mình một bóng, chỉ mỗi con mèo đen làm bạn. Thường Mậu là thợ hàn nồi, gánh đồ nghề trên vai, ngày ngày đi khắp hang cùng ngỏ hẽm, hàn vá nồi niêu xoong chảo. Ông tay nghề khá,
con người đứng đắn, được mọi người quí mến. Tình cờ một bận dự đám tang
người bạn. Đứng trước mộ bạn, nhớ lại lúc sinh thời bạn đối xử rất tốt
với mình, thương xót bạn nên tâm tình phát động, ông vừa kể vừa khóc,
giọng kể mượt mà, tiếng khóc có tình, khiến thân nhân người chết quên cả khóc, những người đưa đám thôi ồn ào. Ai nấy lẳng lặng mà nghe, xúc
động sâu sắc. Không ai ngờ một ông thợ hàn nồi mà có giọng hay đến thế!
Đây là thời kỳ trang nghiêm trong lịch sử Miêu Xoang. Những lời than van
xuất phát từ tấm lòng trung thực, lời hát tang của Thường Mậu như cây
trúc xanh mọc trên tầm cao, hơn hẳn cảnh gào khóc, tỉ tê của các bà các
cô, hay tiếng khóc hờ của cánh đàn ông. Nó vỗ về an ủi những người đang
đau xót vì mất người thân. Nó đem lại sự thưởng thức cho những người
ngoài cuộc. Nó là sự cải cách tang lễ truyền thống chỉ kêu với khóc, mở
ra một nghi thức mới về tang lễ trong con mắt mọi người, chẳng khác các
tín đồ đạo Phật nhìn thấy quầng thiên hoa trên đầu đức Phật nơi cực lạc; y như người ta sau khi tắm gội rũ sạch bụi trần, uống bìng trà nóng, mồ hôi toát ra từ lỗ chân lông. Vậy là một truyền mười, ai cũng biết ông
thợ Thường Mậu không những tay nghề cự phách, mà giọng hát thì hay như
chuông đồng, mà trí nhớ thì thấy gì nhớ nấy, mà ăn nói thì xuất khẩu
thành chương. Dần dà, những gia đình có người chết đều mời ông đến dự
đám tang, nhờ ông hát trước mộ an ủi linh hồn người chết, xoa dịu nỗi
đau người sống. Thoạt đầu, ông thoái thác, hát cho người quá cố mà mình
không quen thì chẳng ra làm sao. nhưng lần một lần hai không đi còn
được, lần thứ ba thì khó mà từ chối. Lưu Huyền Đức mời Khổng Minh chẳng
phải ba lần đến lều cỏ đấy sao? huống hồ là người trong thôn xóm, tắt
lửa tối đèn, lần ngược trăm năm vẫn là thân thích họ hàng, không nể
người sống thì nể người đã chết. Người chết dữ như hổ, hổ chết hiền như
cừu. Người đã chết cao sang, người còn sống ti tiện. Vậy là đi, một lần
hai lần ba lần, lần nào cũng được coi như thượng khách, đón tiếp nồng
nhiệt. Cây sợ tưới nước tiểu vào rễ cái, người sợ tưới rượu thịt vào tâm can. Một anh thợ hàn mà được trọng vọng nhường ấy, cảm kích vô cùng,
tất nhiên phục vụ bất kể sống chết. Dao càng mài càng sắc, nghề càng
luyện càng tinh. Nghệ thuật của ông được nâng cao đến mấy tầm. Để có
những khúc hát mới lạ, ông tôn Mã Đại Quan tiên sinh được coi là có học
nhất trong thôn làm thầy, thường xuyên kể chuyện xưa và nay cho ông
nghe. Sáng nào ông cũng lên mặt đê luyện giọng.
Lúc đầu, chỉ các hộ bình thường mời Thường Mậu hát tang, khi đã tiếng lành đồn xa, các
đại gia bắt đầu mời ông. Những năm tháng ấy, đám tang nào có ông dự, cầm bằng ngày hội ở Cao Mật. Người ta dìu già dắt trẻ, mấy chục dặm đường
cũng đến nghe. Đám nào không có ông, thì dù hào hoa đến mấy, sang trọng
đến mấy, cờ phướn rợp trời, rượu thịt la liệt, người dự vẫn lèo tèo.
Rồi đến một ngày, Thường Mậu quẳng gánh đồ nghề, trở thành đại sư hát tang chuyên nghiệp.
Nghe nói ở phủ Khổng có người người chuyên khóc tang, giọng tốt, đều là nữ.
Nhưng họ đóng giả làm thân nhân người chết mà khóc, kêu trời kêu đất, ai oán não nùng. Kiểu khóc tang của họ khác hoàn toàn hát tang của Thường
Mậu. Vì sao sư phụ phải so sánh hát tang của miếu Khổng vớ hát tang của
tổ sư chúng ta? vì rằng, cách đây mấy chục năm có người xuyên tạc, rằng
tổ sư của chúng ta nghe theo lời khuyên của một vị khóc tang ở miếu
Khổng, chuyển sang kiếm ăn bằng nghề hát tang. Sư phụ đã từng đến khảo
sát ở miếu Khổng, ở đó hiện vẫn còn một số phụ nữ làm nghề khóc tang. Họ chỉ thuộc lòng một số câu chữ, nào trời ơi, nào đất hỡi, hoàn toàn
không giống hát tang của tổ sư trước linh cữu của người đã khuất. So
sánh tổ sư với họ, chẳng khác đem trời so với đất, đem phượng hoàng so
với gà rừng!
Tổ sư chúng ta hoàn toàn ngẫu hứng mà diễn xướng
trước vong linh người chết, câu chữ là căn cứ vào hành trạng lúc sinh
dắt tay cùng lên; hóa thành cầu vồng, bay lên trời xanh. Rồi tui ngồi ăn ngốn ngấu, răng đau nuốt chửng, sống gửi thác về, tâm thần bình ổn. Một vở kịch lớn, long trọng mở màn.
Xe tù ra đường phố lớn,
hai bên người đông nghịt. Điều mà người biểu diễn mong nhất, là tinh
thần thái độ người xem. Phút bi tráng nhất của cuộc đời là lúc lên xe tù ra pháp trường. Tôn Bính tui ba mươi năm diễn trò, chỉ hôm nay mới có
phút giây lừng lẫy.
Tui trông thấy lưỡi lê sáng ngời nhấp nhô
phía trước, chóp đỏ chóp xanh lấp lóa đằng sau, ánh mắt bà con dàn hai
bên phố. Tui trông thấy bao nhiêu hương thân râu phơ phất, bao nhiêu phụ nữ lệ chảy tràn, bao nhiêu em nhỏ miệng há hốc, nước bọt trào ra chảy
ướt cằm. Bỗng tui trông thấy Mi Nương lẩn trong đám phụ nữ, lòng đau như cắt, nước mắt rưng rưng. Nam nhi thà chết không rơi lệ, anh hùng biết
giấu nỗi đoạn trường.
Xe tù lăn bánh trên đường đá, nắng rọi đầu tù chợt ngứa ran. Thanh la dẫn đường phèng phèng, tháng Tám gió thu nhè nhẹ. Ngẩng nhìn thăm thẳm trời xanh, nỗi lòng tê tái. Nhìn mây trắng
trời xanh, chợt nhớ mây in dòng Mã Tang. Chợt nhớ nước sông trong vắt,
đem về đãi khách bốn phương. Nhớ Đào Hồng, nhớ hai con, bầm tím ruột gan thù giặc Đức. Chúng làm đường sắt, phá tan tành vùng Đông Bắc! Chạm nỗi đau, bật lên tiếng hát:
Tiền hô hậu ủng oai phong khiếp! Ta mặc long bào, đội kim quan, đai ngọc ngang lưng, dáng đi đường bệ. Bớ
phường cẩu trệ đứa nào dám cản bước chân ta…
Lời ca vừa
dứt, hàng vạn người hai bên đường ồ lên tán thưởng. Đồ đệ Uùt Sơn của
tui chớp thời cơ đệm các loại tiếng mèo, mi-ao mi-ao mi-ao, khiến giọng
ca của tui càng mượt.
Ngắm trời cao gió thu vàng lồng
lộng, nhìn đất dày cây cỏ xanh rờn, ta đây vốn anh kiệt hóa thân, dựng
cờ nghĩa thay trời hành động, cứu Trung Hoa kiếp nạn trầm luân.
Không cho giặc dựng xong đường sắt!
… Vừa ăn xong gan rồng óc phượng, vừa uống xong ngọc dịch quỳnh tương…
mi-ao mi-ao mi-ao!
Đồ đệ khá lắm, đệm đúng nhịp.
Tui nhìn thấy bà con nước mắt chan hòa. Bắt đầu từ trẻ con cùng Uùt Sơn
nhại tiếng mèo kêu, rồi đến người lớn, hàng vạn tiếng kêu quyện làm một, như tập trung ở đây toàn bộ thế giới của loài mèo!
Trong tiếng
ca Miêu Xoang cao vút tầng mây, trong tiếng mèo ran ran mặt đất, tui
trông thấy Viên Thế Khải và Caclôt mặt vàng bệch, lũ quan quân hoảng
loạn như gặp địch! Được một lần biểu diễn như thế này trong đời, tui có
chết cũng đáng!
Thôi thôi thôi, bà con chớ phiền phiền não não…
Bọn gian tặc mở mắt mà trông, đệ tử ta phất cờ nổi dậy, phá tan hoang
đường sắt Giao Đông! Ta chết không ân hận, lửa cháy lên rồi, ta những
chờ mong!…
Mi-ao mi-ao mi-ao!
Meo meo meo!