Địa Đồ Di Cốt

Chương 4 : Cát bụi về cát bụi

Ngày đăng: 16:31 19/04/20


Ngày 24 tháng 7, 12 giờ 14 phút



Washington D.C.



Phi vụ đã được giao ưu tiên màu da cam, phân công màu đen và quy chế an ninh màu bạc. Giám đốc Painter Crowe lắc đầu trước cách mã hóa theo màu sắc như vậy. Vị quan chức nào đó chắc phải đến thăm cửa hiệu Sherwin - Williams nhiều lần lắm thì phải.



Tất cả mọi tính toán đều hướng về một đích: Không được thất bại. Khi đã dính đến những vấn đề có tầm an ninh quốc gia sẽ không có vị trí thứ hai, không có huy chương bạc, không có kẻ tụt hậu.



Painter ngồi cạnh bàn làm việc, đọc lại báo cáo của người điều hành tác chiến. Tất cả có vẻ như ổn. Gây dựng lòng tin, nâng cấp mật mã điểm an toàn, hoàn tất các thiết bị kiểm tra, phối hợp lịch trình vệ tinh và hàng nghìn các chi tiết khác đã được hoàn tất. Painter đọc lại bản phân tích chi phí của phi vụ. Ông sẽ có một cuộc họp về ngân sách tuần tới với Tham mưu Liên quân.



Ông dụi mắt. Đó là một phần của cuộc sống của ông: công việc bàn giấy, những lệnh triển khai và sức ép. Hôm nay quả là một ngày vất vả. Đầu tiên là vụ phục kích của Hiệp hội, còn bây giờ là một phi vụ quốc tế phải tiến hành. Tuy nhiên một phần trong ông vẫn luôn say mê thách thức và trách nhiệm mới. Ông đã được giao tổ chức Sigma từ người sáng lập ra nó, Sean MsKnight, giờ đây đã là giám đốc của tổ chức DAPKA. Painter không hề muốn làm người đỡ đầu mình phải thất vọng. Suốt buổi sáng, cả hai đã bàn bạc về vụ tấn công vào Fort Detrick và phi vụ sắp tới, sâu chuỗi toàn bộ công việc giống như ngày trước. Sean ngạc nhiên trước việc Painter lựa chọn người chỉ huy nhóm, nhưng cuối cùng đó vẫn là quyết định của ông ta.



Như vậy, phi vụ được chấp thuận.



Tất cả những gì còn lại là thông báo cho các điệp viên. Giờ chuyến bay được định vào lúc 0 giờ 20 phút. Không còn nhiều thời gian. Một chiếc máy bay tư nhân, được Oil Kensington nạp nhiên liệu và thu xếp miễn phí, quả là một vỏ bọc tuyệt vời. Chính Painter đã sắp xếp chuyện này sau một cú điện nhờ vả phu nhân Kara Kensington. Bà ta rất hài lòng, sẵn sàng giúp đỡ Sigma lần nữa. “Liệu những người Mỹ các ông có thể tự mình làm nổi việc gì không?” Bà chọc ông.



Máy điện thoại nội bộ reo trên bàn.



Ấn nút máy, ông ra lệnh “Nói đi.”



“Thưa giám đốc Crowe. Tôi đã có được tiến sĩ Kokkali và Bryant ở đây rồi.”



“Cho họ vào”.



Một tiếng chuông cửa rồi tiếng khóa cửa bật tách. Monk Kokkali đẩy cửa vào trước rồi giữ cánh cửa cho Kathryn Bryant. Cô ta cao hơn hẳn anh chàng mập cựu biệt kích mũ nồi xanh một cái đầu. Cô di chuyển duyên dáng như một con báo đầy sức mạnh tiềm ẩn. Mái tóc màu hạt dẻ xõa đến vai được túm lại gọn gàng giống như bộ quần áo cô đang mặc: áo màu xanh lính thủy, váy màu trắng, giày da cao cổ. Chỉ có một thứ duy nhất lấp lánh đó là chiếc kẹp gắn mẩu đá quý có hình một con cóc nhỏ. Mạ vàng trên đá quý. Thật tương xứng với cặp mắt xanh của cô.



Painter biết tại sao cô lại đeo chiếc kẹp mạ vàng. Con cóc là một món quà của nhóm lính thủy đánh bộ cô từng tham gia trong một cuộc hành quân trinh sát để thu thập tin tức tình báo hải quân. Cô đã dùng sức mạnh phi thường của mình cứu được hai người. Có điều là một đồng đội của cô không bao giờ quay trở lại. Cô đeo chiếc kẹp để kỷ niệm người xấu số, Painter tin rằng còn có nhiều tình tiết trong câu chuyện đó nữa nhưng hồ sơ của cô không cho biết gì hơn nữa.



“Xin mời ngồi” Painter chào cả hai bằng cái gật đầu.



“Thế chỉ huy Pierce đâu rồi?”



Monk cựa quậy trên ghế “Gray… chỉ huy Pier có việc gia đình đột xuất. Anh ta vừa về đến nơi. Sẽ lên ngay bây giờ”.



Nói đỡ cho nhau. Tốt. Đó là lý do vì sao ông đã dọn Monk Kokkali vào phi vụ này, xếp anh ta đi cùng với Grayson Pierce. Họ bổ sung tài năng cho nhau nhưng quan trọng hơn, tính cách họ hợp nhau.



Trong khi Monk là một kẻ sách vở thì Gray lại là người ưa hành động. Song Gray lại chịu nghe Monk hơn bất kỳ thành viên nào trong Sigma. Anh ta đã thổi chất thép vào con người Gray. Monk có cách nói đùa và pha trò tếu rất thuyết phục, cũng như những lập luận đưa ra rất thấu đáo. Họ làm thành một cặp hoàn hảo.



Và một mặt khác…



Painter để ý Kat Bryan vẫn ngồi thẳng đuột, rất chăm chú. Cô không hề tỏ ra e sợ, thậm chí trông còn có vẻ hung hăng phấn khích. Nhìn cô thấy toát ra sự tự tin. Có thể hơi quá. Ông quyết định đưa cô vào phi vụ này do cô xuất thân là một nhân viên tình báo hơn là việc cô đang theo học cơ khí. Cô có kinh nghiệm với các quy chế ở các nước EU, đặc biệt khu vực Địa Trung Hải. Cô biết về hoạt động do thám siêu điện tử và phản gián. Quan trọng hơn nữa, cô đã từng hợp tác với một trong các nhân viên tình báo Vatincan, ngài Verona, người rất có thể giám sát công việc điều tra. Hai người đã từng hợp tác với nhau trong vụ phá án nhóm quốc tế chuyên ăn cắp tranh nghệ thuật.



“Có khi chúng ta nghiên cứu hồ sơ trong lúc chờ chỉ huy Pierce”. Painter chuyển hai tập hồ sơ dày cộp gáy màu đen, một tập cho Bryant, tập kia cho Kokkali. Tập hồ sơ thứ ba đợi Pierce.



Monk liếc nhìn dòng chữ bạc Sigma được gắn trên bìa tập hồ sơ.



“Cái này sẽ điền những chi tiết hay hơn cho cuộc hành quân”. Painter nói, gõ nhẹ vào những màn hình xoa trên bàn. Ba màn hình Sony phẳng – một cái ở sau vai, một cái bên phải, một cái bên trái cho thấy cảnh của phong cảnh rừng núi được thu với độ nét cao cũng gắn chữ Sigma. “Tôi sẽ đích thân làm công việc thông báo thay vì giao cho người chỉ huy hành quân như mọi khi”.



“Tách biệt tin tức tình báo” Kat nói khẽ, chất giọng phía nam của cô đã được mềm đi từ những âm được phát ra. Painter hiểu cô có khả năng xóa hết mọi dấu vết trong giọng nói của mình nếu cần thiết. “Do xảy ra trận phục kích”.



Painter gật đầu. “Mọi thông tin đều bị hạn chế trước khi có việc kiểm tra rộng rãi hệ thống các quy trình an ninh”.



“Và chúng ta vẫn tiếp tục một phi vụ mới?” Monk hỏi.



“Chúng ta không còn sự lựa chọn nào khác. Do có lời…”.



Tiếng điện thoại nội bộ chen ngang. Painter nhấn nút.



“Thưa ngài giám đốc” Tiếng cô thư ký “Tiến sĩ Pierce đã đến”.



“Cho anh ta vào.”



Lại có tiếng nhạc, cửa mở và Grayson Pierce bước vào. Anh mặc chiếc quần bò Levi’s màu đen, đi giày da, chiếc áo trắng kẻ, tóc chải rẽ, vẫn còn đẫm nước sau khi tắm.



“Tôi xin lỗi”. Grayson nói, dừng lại ở giữa hai nhân viên kia. Nét cứng cỏi trong cặp mắt như muốn che giấu nỗi buồn thực sự. Anh đứng thẳng. Sẵn sàng nghe lời quở trách.



Kể ra thì cũng đáng bị như vậy. Sau khi an nịnh bị chọc thủng giờ đây đã đến lúc phải véo mũi anh ta tại sở chỉ huy. Trước đây một số việc làm sai vẫn luôn được tha thứ tại sở chỉ huy Sigma. Họ vẫn thuộc vào loại những người đàn ông và đàn bà giỏi giang nhất trong những người giỏi giang. Người ta không thể đòi hỏi họ phải hành động độc lập trên trận địa rồi lại mong họ uốn mình chịu đựng kỷ luật sắt ở đây. Điều đó đòi hỏi một bàn tay thầm lặng để cân bằng hai thứ.



Painter nhìn chăm chú vào Grayson. Với hệ thống an ninh được tăng cường, Painter thừa biết là anh ta đã nhận được một cú điện thoại khẩn từ bà mẹ và đã xin phép trung tâm ra ngoài. Đằng sau nét cứng cỏi trong đôi mắt Painter cũng nhận thấy có sự mệt mỏi. Liệu đó có phải bắt nguồn từ trận bị phục kích hay từ chuyện gia đình? Liệu anh ta có thích ứng với nhiệm vụ mới này hay không?



Grayson vẫn đứng chịu trận, mắt không hề chớp. Anh ta tiếp tục chờ đợi.



Cuộc gặp này còn có một mục đích nữa, không chỉ là thông báo tình hình, đó cũng là một cuộc thử thách.



Painter vẫy tay chỉ vào chiếc ghế: “Gia đình là quan trọng.” Ông nói, tha cho anh chàng. “Nhưng đừng để chuyện đó thành thói quen đấy.”



“Không đâu ạ, thưa ngài.” Gray đi ngang qua rồi ngồi xuống nhưng cặp mắt anh vẫn đảo từ màn hình monitor phẳng đến tập hồ sơ trên đùi các cộng sự. Cặp mắt anh hơi nhíu lại. Việc không bị quở trách đã làm anh ta bối rối. Tốt.



Painter đẩy tập hồ sơ thứ ba về phía Grayson. “Chúng tôi vừa mới bắt đầu thông báo về nhiệm vụ”.



Anh ta cầm tập hồ sơ. Một thoáng chán chường hiện lên trong mắt nhưng anh vẫn giữ im lặng.



Painter tựa lưng gõ màn hình ở bàn. Một nhà thờ Gô- tích hiện lên trên màn hình trái, một tấm ảnh chụp bên ngoài. Cảnh bên trong hiện lên ở màn hình trái. Những xác chết nằm ngổn ngang khắp nơi. Phía sau lưng, ông biết là một tấm hình có vạch phấn đánh dấu bàn thờ vẫn còn những vệt máu, rồi cảnh vị linh mục bị sát hại, cha Georg Breitman..



Painter vẫn chăm chú nhìn các nhân viên của mình không rời mắt khỏi các hình ảnh.



“Vụ thảm sát ở Cologne.” Kat Bryan nói.



Painter gật đầu. “Nó diễn ra lúc gần cuối buổi lễ nửa đêm kỷ niệm ngày ăn mừng của những nhà Tiên tri Babilon. Tám mươi lăm người bị chết. Động cơ xem ra là một vụ án trộm thông thường. Cái hòm đựng di cốt vô giá của nhà thờ đã bị đập vỡ.” Painter chuyển qua hình ảnh chiếc quan tài bằng vàng và những mảnh vỡ còn lại của hộp bảo vệ. “Những thứ duy nhất bị mất là báu vật của nhà thờ. Cái gọi là di cốt của các nhà Tiên tri Babilon.”



“Di cốt?” Monk hỏi. “Chúng để lại một cái hòm bằng vàng ròng để lấy một nắm xương khô, ai làm chuyện đó?”



“Điều đó vẫn còn chưa được biết. Chỉ có một người duy nhất sống sót sau vụ thảm sát.” Painter chiếu hình một cậu thanh niên đang được khênh trên cáng, ảnh người đó ở trên giường bệnh viện, đôi mắt mở to nhưng vẫn còn ngây dại vì sốc. “Jason Pendleton. Người Mỹ. Hai mươi mốt tuổi. Cậu ta được tìm thấy trong phòng xưng tội. Khi được tìm thấy, cậu ta như kẻ mất hồn nhưng sau khi được một liều thuốc an thần cậu ta đã có thể cung cấp một bản báo cáo chi tiết Nhóm hành động ăn mặc như những nhà tu. Nhưng không khuôn mặt nào được nhận ra. Chúng xô vào trong nhà thờ. Trang bị súng trường. Một vài người bị bắn, trong đó có vị linh mục và ngài tổng giám mục.”



Thêm nhiều hình ảnh nữa xuất hiện trên màn hình: vết thương do đạn bắn, những ảnh khái quát có vạch phấn, một bản vẽ nhằng nhịt những vạch đỏ mô tả đường đi của các phát súng. Nó giống như cảnh gây tội ác thông thường, có điều là khung cảnh thật khác thường.



“Tại sao chuyện này lại liên quan đến Sigma?” Kat hỏi.



“Còn có những cái chết khác nữa, không thể giải thích được. Để phá chiếc hộp bảo vệ, những kẻ tấn công đã sử dụng một thiết bị gì đó mà không chỉ làm nát vụn cái hộp vốn có khả năng chống đạn bắn xuyên qua, và đồng thời cứ như theo lời người sống sót lại gây ra một làn sóng tử vong khắp nhà thờ.”



Painter với tay ấn nút. Cả ba màn hình đều hiện lên những xác chết khác nhau. Khuôn mặt của các nhân viên đều vô cảm. Họ đã chứng kiến quá nhiều cái chết. Những thân thể bị biến dạng, đầu ngoảnh về phía sau. Một tấm hình chụp cận cảnh một trong những gương mặt của người chết. Mắt mở trừng trừng, còn ngươi chuyển sang màu hổ phách trong khi những dấu vết đen kịt của những giọt nước mắt đã biến thành máu đọng ở khóe mắt. Môi trề ra, như đông cứng vì đau đớn, răng ngậm chặt, lợi rỉ máu, lưỡi sưng vù, giập nát và đen sẫm ở góc.



Monk với năng lực đã được đào tạo về ngành y và pháp y nheo nheo đôi mắt. Anh ta có thể đóng vai trò kẻ đãng trí nhưng lại là một quan sát viên sắc sảo, thế mạnh nhất của anh ta.



“Báo cáo đầy đủ xét nghiệm tử thi nằm trong tập hồ sơ của mọi người.” Painter nói. “Kết luận ban đầu của các bác sĩ cho rằng những cái chết đó là do một biểu hiện nào đấy của cơn động kinh co thắt. Tất cả đều chết trong tình trạng tim bị co bóp mạnh, quá mạnh đến mức không thể tìm thấy máu trong ngực. Một người đang ông mang theo chiếc máy trợ tim bị vỡ tan trong ngực ông ta. Một người phụ nữ mang theo một cái kẹp bằng kim loại được tìm thấy trong chân vẫn còn cháy hàng giờ sau đó, âm ỉ từ trong ra ngoài.”



Các nhân viên giữ vẻ mặt bình thản, nhưng Monk hấp háy một mắt, còn nước da của Kat hình như chuyển sang màu trắng nhợt. Ngay cả Gray vẫn nhìn quá chăm chú vào những tấm ảnh, không chớp mắt.



Nhưng Gray là người đầu tiên lên tiếng. “Liệu chúng ta có nên tin rằng những cái chết này có liên quan đến một thiết bị do những tên trộm gây ra không?”



“Chắc chắn là như vậy. Người sống sót cho biết cảm giác bị sức ép ghê gớm trong đầu khi thiết bị này được bật lên. Anh ta mô tả điều đó như lúc xuống máy bay. Cảm thấy ở tai. Những cái chết xảy ra vào lúc đó.”



“Nhưng Jason vẫn sống.” Kat nói, thở một hơi.



“Nhưng một số khác cũng vậy. Còn những người không bị tác động sau đấy lại bị những kẻ đó bắn chết. Tàn sát một cách dã man.”



Monk cựa quậy. “Một số người cam chịu, một số khác không. Tại sao? Liệu có gì chung cho những nạn nhân của tình trạng co thắt đột ngột này không?”



“Chỉ có một. Một sự thật được Jason Pendleton lưu ý. Những người phải chịu tình trạng co thắt hình như là những người đã ăn bánh thánh.”



Monk chớp mắt.



“Chính vì lý do đó nên Vatican đã liên hệ với các giới chức Hoa Kỳ. Và chúng ta là người phải hứng chịu chuỗi mệnh lệnh đó.”



“Vatican”, Kat nói.



Painter đọc được sự hiểu biết trong mắt cô. Cô đã hiểu ra vì sao mình được chọn tham gia phi vụ này và tạm ngưng chương trình học tiến sĩ về cơ khí.



Painter tiếp tục “Vatican sợ sự việc này nếu được lan truyền rộng ra ngoài sẽ tác động đến lễ ban bánh thánh. Rất có thể là chuyện đầu độc vào những mẩu bánh. Họ muốn có câu trả lời càng nhanh càng tốt, thậm chí nếu cần cũng phải nắn lại luật pháp quốc tế. Nhóm của các bạn sẽ hoạt động cùng với hai nhân viên tình báo có liên hệ với Vatican. Họ sẽ tập trung vào việc tại sao tất cả các cái chết có vẻ như hướng tới việc che chắn chuyện ăn cắp di cốt của các nhà tiên tri. Liệu đấy có phải là một cử chỉ tượng trưng không? Hay biết đâu còn có điều gì liên quan đến vụ đánh cắp?”



“Thế còn mục tiêu cuối cùng của chúng ta?” Kat hỏi.
“Năng lượng chuyển thành chất siêu dẫn có thể tiếp tục chuyển qua vật liệu mà không mất đi năng lượng. Một chất siêu dẫn hoàn hảo có thể cho phép năng lượng này chạy vô tận đến khi chấm dứt giai đoạn của chính nó”.



Giữa họ lúc này là sự im lặng khi cân nhắc về những điều khác biệt.



Cuối cùng Monk nói “Tuyệt vời! Chúng ta đã đưa được bí mật đó xuống mức của hạt nhân nguyên tử. Giờ thì chúng ta sẽ quay trở lại. Vậy điều này liên quan gì đến vụ giết người ở nhà thờ? Tại sao phải tẩm độc vào các bánh xốp với loại bột vàng quái gở này? Loại bột này giết người ra sao?”



Đó là những câu hỏi thật sắc sảo. Kat đóng tập hồ sơ lại, nghĩ rằng không thể tìm ra những câu trả lời trong đó.



Gray đã bắt đầu hiểu ra rằng tại sao giám đốc lại cử cho anh hai cộng sự như vậy. Họ đã vượt quá vai trò của mình như một nhân viên tình báo hay chuyên gia tội phạm học. Kat có khả năng tập trung vào từng chi tiết để nhặt ra những điểm mà người khác có thể bỏ qua. Còn Monk cũng không kém phần sắc sảo, thường nhìn vào một bức tranh toàn cảnh, phát hiện ra được xu hướng dẫn tới một khung cảnh rộng lớn hơn.



Những cái đó đưa anh đến đâu?



“Hình như chúng ta vẫn còn nhiều thứ phải điều tra” Anh kết thúc.



Monk nhướn lông mày “Như đã nói từ đầu, chúng ta không có gì nhiều để đi tiếp”.



“Chính vậy, chúng ta được điều động để giải quyết những gì là không thể”. Gray nhìn đồng đội, cố ghìm cơn buồn ngủ, “Và để làm được điều đó, chúng ta phải tận dụng thời gian còn lại cho đến khi hạ cánh xuống đất Đức”.



Hai người kia gật đầu. Gray đứng lên bước tới một cái ghế gần đó. Monk với lấy chăn và gối. Kat buông mành cửa sổ làm cả khoang tối hẳn đi.



Gray nhìn họ. Nhóm của anh. Trách nhiệm của anh!



Muốn là một con người, trước hết anh phải hành động giống như vậy.



Gray cầm lấy chiếc gối của mình và ngồi xuống. Anh không dựa lưng vào ghế. Mặc dù rất mệt nhưng anh không nghĩ mình sẽ ngủ được nhiều. Monk tắt những ngọn đèn trần. Bóng đêm buông xuống.



“Chúc ngủ ngon, chỉ huy” Kat nói qua khoang cabin.



Khi hai người kia đi ngủ. Gray ngồi trong bóng tối phân vân không hiểu vì sao mình lại ở đây. Thời gian trôi qia. Tiếng động cơ thật êm, nhưng anh vẫn không thể nào chợp mắt được.



Trong khoảnh khắc riêng tư, Gray thò tay vào túi quần jean đang mặc. Anh lấy ra một tràng hạt, cầm lấy cái thánh giá ở một đầu rồi nắm thật chặt đến đau cả tay. Đó là món quà tốt nghiệp ông nội tặng anh. Hai tháng sau, ông cụ mất. Gray lúc đó đang đi dã ngoại không kịp về dự lễ tang. Anh ngồi dựa vào ghế, sau cuộc giao ban hôm nay, anh đã gọi điện cho gia đình, nói dối về chuyến đi công tác đột xuất này.



Lại tiếp tục đi…



Những ngón tay cứ lần lượt chạm vào dây tràng hạt cứng.



Anh chả đọc lời cầu nguyện nào.



***



10 giờ 24 phút



Lausanne, Thụy Sĩ.



Lâu đài Sauvage nằm trên một ngọn đèo thuộc dãy núi Alp trông giống như một người khổng lồ bằng đá. Bức tường đá dày tới mười feet. Cái tháp bốn góc độc nhất của lâu đài đứng nhô cao hơn hẳn so với bức tường. Lối đi duy nhất đến cổng lâu đài là chiếc cầu đá chạy ngang qua đèo. Tuy không phải là lâu đài lớn nhất ở địa phận Thụy Sĩ, nhưng chắc chắn nó là lâu đài cổ nhất. Móng của lâu đài còn cổ hơn nữa. Tường lâu đài được xây dựng trên nền cũ của một pháo đài cổ từ thế kỷ thứ nhất sau Công nguyên.



Nó cũng là một trong những lâu đài tư nhân cổ nhất, đã thuộc về gia đình Sauvage từ thế kỷ thứ XV khi quân đội Bernese giành lại quyền kiểm soát vùng Lausannne từ tay vị giám mục hư hỏng trong thời kỳ Phục hưng. Từ ban công của lâu đài có thể nhìn xuống hồ Geneva nằm tít ở phía dưới và bên mặt đá lởm chởm của thành phố Lausanne, từng một thời là ngôi làng đánh cá. Giờ đây Lausanne là một thành phố xinh đẹp với những công viên ven hồ, bảo tàng, nhà nghỉ, câu lạc bộ và quán cà phê.



Người chủ hiện nay của lâu đài, Bá tước Raoul de Sauvage, chả thèm để ý đến khung cảnh lấp lánh ánh đèn của thành phố vào đêm, bước xuống cầu thang dẫn tới hầm lâu đài. Y được người ta triệu tập. Đằng sau y, một con chó lông xù to lớn phải tới bảy mươi kg chạy theo. Loại chó Bernese vùng núi này có bộ lông đen sẫm nhảy từng bước xuống bậc thang đá.



Rauol cũng nuôi hàng đàn chó dữ với nhiều chủng loại, có con nặng tới hàng trăm kg. Y cũng gây giống nhiều loại chó đua ăn thịt.



Nhưng giờ đây, Rauol còn có những việc thậm chí còn đẫm máu hơn phải giải quyết.



Y đi ngang qua hầm đá của lâu đài. Những gian hầm cất giữ một bộ sưu tập khổng lồ các loại vang, một cái hầm rượu tuyệt vời, đặc biệt có một gian hầm được xây cất từ những ngày xa xưa. Bốn căn hầm đá được gia cố bằng những cửa thép không rỉ, khóa điện tử và hệ thống quan sát video. Gần những gian hầm, một căn phòng lớn vẫn còn chứa những dụng cụ tra tấn từ thời trung cổ, cùng một số phương tiện hiện đại. Gia đình y đã từng chứa chấp những tên trùm phát xít trốn thoát khỏi nước Áo sau Đại chiến thế giới thứ hai từ những gia đình có dây mơ rễ má đến tận vùng Hapsburg. Bọn chúng đã ẩn náu tại đây. Để trả công, ông nội của Rauol đã nhận phần của mình, thứ “đồ chơi” như cách gọi của gã, đã giúp giữ lại được cái lâu đài cho gia đình.



Lúc này, tuy mới vào tuổi ba mươi hai, Rauol đã có thể vượt qua ông nội của y. Rauol, một gã vô lại đối với cha y, đã được thừa hưởng quyền thừa kế cả hai dinh thự khi y mới mười sáu tuổi lúc ông chết. Y là con trai độc nhất của gia đình. Trong dòng họ Sauvage, việc nối dõi tông đường luôn được coi như thứ tự ưu tiên trong mọi cuộc hôn nhân. Ngay cả sinh ra y cũng được tính toán thu xếp.



Một con rối nữa của ông nội.



Bá tước Sauvage trèo xuống sâu nữa dưới vách núi, con chó vẫn lẽo đẽo đi theo sao. Ánh sáng đèn pin chiếu rọi bước chân y.



Những bậc thang bằng đá đã trở thành những tảng đá tự nhiên được đẽo gọt. Nơi đây vào thời Trung cổ, những tên lính lê dương La Mã đã từng đặt chân đến, thường dẫn đến các vụ tế thần bằng bò hay dê ở cái hang sâu phía dưới. Cái hang này đã được chuyển đổi thành đền thờ thần Mithra, thần mặt trời du nhập từ Iran, được những tên lính nhà Vua cầu nguyện. Ngày sinh của thần Mithra được cúng bái vào ngày 25 tháng 12. Lễ cúng thần có lễ đặt tên và dự một bữa tiệc thiêng gồm bánh mỳ và rượu vang. Mithra có mười hai tín đồ lấy ngày Chủ nhật là ngày thiêng liêng, mô tả thiên đường và địa ngục. Khi chết, thần Mithra cũng được chôn vào một ngôi mộ, chỉ ngồi dậy ba ngày sau.



Từ đó, một số học giải cao rao rằng đạo Thiên chúa giáo hòa quyện với huyền thoại Mithra thành một thứ đạo riêng. Nó không giống như kiểu cái lâu đài ở đây, cái mới đứng trên đôi vai của cái cũ, cái mạnh vượt qua cái yếu. Rauol chả thấy có gì sai trái với chuyện đó cả, thậm chí còn kính phục nữa.



Đó là trật tự tự nhiên.



Raoul xuống bậc thang cuối cùng rồi đi vào một hang đá ngầm rộng rãi. Nóc hang là một vòm đá tự nhiên, trổ lên đó một cách thô kệch các ngôi sao và mặt trời. Một bàn thờ Mithra cổ nơi đặt những con bò để tế thần đứng ở một góc xa. Phía trước là một dòng suối sâu lạnh lẽo, một con sông nhỏ. Rauol hình dung ra những xác súc vật vứt xuống tế thần bị dòng sông nhấn chìm rồi cuốn đi. Y cũng đã tế thần một vài con vật của mình bằng cách đó, những con vật mà lũ chó của y không ăn được.



Bước vào cửa, y cởi cái áo choàng bằng da. Bên trong, y mặc một cái áo sơmi cũ có thêu hình con rồng uốn mình, biểu tượng của Ordinis Draconis, Long Đình, dòng giống từ bao thế hệ nhà Sauvage.



“Drakko, ở lại đây” Y ra lệnh.



Con chó núi loại Bernese nằm xuống, tuân lệnh.



Cũng giống như chủ của nó…



Rauol cúi khom người lúc đứng ở trong hang rồi bước lên phía trước.



Vị Hoàng đế tối cao của Long Đình đợi y trước bàn thờ, mặc bộ quần áo đi mô tô bằng da đen. Mặc dù ông ta hơn y hơn hai thập kỷ nhưng trông cao lớn, đôi vai rộng không hề kém y. Ở ông ta không thấy biểu hiện gì của tuổi già, vẫn rắn chắc, khỏe mạnh. Ông ta vẫn đội chiếc mũ xe máy, chụp tấm kính che mặt.



Vị lãnh tụ đi vào bằng lối cửa sau bí mật của hang cùng với một người lạ mặt. Có quy định là cấm ngặt những người ngoài Long Đình được nhìn mặt Hoàng đế.



Người lạ bị bịt mắt theo đúng quy định.



Raoul cũng chú ý đến năm người cận vệ đứng gác sau động, tất cả đều cầm súng tiểu liên tự động, những lính gác trung thành của vị Hoàng đế.



Raoul sải bước lên phía trước, tay phải để lên ngực. Y quỳ một chân xuống trước mặt Hoàng đế. Raoul là người đứng đầu cánh quân sự của Long Đình, một vinh dự đã có từ thời của Vlad, Người Xuyên Qua, ông cố tổ của gia đình Sauvage. Tất cả đều cúi chào Hoàng đế. Một tước hiệu mà Raoul hy vọng một ngày nào đó y sẽ giành được.



“Đứng dậy” Vị Hoàng đế ra lệnh.



Raoul đứng lên.



“Người Mỹ đã đến rồi” Hoàng đế nói. Giọng của ông ta dù nói qua mũ bảo hiểm vẫn đầy mệnh lệnh. “Các người đã sẵn sàng chưa?”



“Rồi, thưa ngài. Tôi đã tuyển mộ được một tá rồi. Chúng tôi chỉ chờ lệnh của ngài”.



“Tốt lắm. Đồng minh của chúng ta cho mượn một nhân vật có thể hỗ trợ phi vụ này. Một người biết về các nhân viên tình báo Mỹ”.



Raoul nhăn mặt. Y không cần sự trợ giúp nào.



“Nhà ngươi có vấn đề gì không?”



“Không, thưa ngài”.



“Một chiếc máy bay sẽ chờ ngươi và đồng bọn tại sân bay Yverdon. Hãy nhớ là không có lần thứ hai nữa đâu nếu thất bại”.



“Tôi sẽ không thất bại”. Y khẳng định.



Hoàng đế nhìn chằm chặp vào y, một cái nhìn lạnh thấu đến ghê người dù qua mặt kính chiếc mũ đã hạ xuống. “Nhà ngươi biết nhiệm vụ của mình rồi chứ?”



Cái gật đầu cuối cùng.



Hoàng đế rảo bước, đi ngang qua Raoul cùng những gã cận vệ tháp tùng. Ông ta hướng tới lâu đài, sẽ ngự tại đây cho đến khi trò chơi chấm dứt. Nhưng trước tiên, Raoul phải kết thúc việc dọn dẹp mớ bòng bong y đã để lại.



Điều đó có nghĩa là một chuyến đi nữa tới Đức.



Y chờ đến lúc Hoàng đế bước đi. Con Drakko cum cúp đi phía sau những người kia như thể nó đánh hơi được quyền lực thực sự ở đây. Thế là một lần nữa, nhà lãnh đạo lại đến lâu đài trong vòng mười năm qua khi những chìa khóa cho sự nguyền rủa và cứu rỗi đã rơi vào lòng họ.



Tất cả bắt nguồn từ một sự phát hiện tình cờ ở bảo tàng Cairo…



Giờ thì chúng đã đến rất gần.



Cuối cùng sau khi vị chỉ huy đi ra rồi, Raoul mới đối mặt với người lạ. Những gì nhìn được, y thấy thiếu, mặc cho sự bực bội của mình bộc lộ. Nhưng ít ra bộ quần áo của người lạ tất cả màu đen, rất vừa khít.



Giống như một phần thưởng bằng bạc.



Từ sợi dây chuyền của người phụ nữ là một con rồng cuộn tròn.