Địa Đồ Di Cốt

Chương 5 : Điên cuồng

Ngày đăng: 16:31 19/04/20


Ngày 25 tháng 7, 2 giờ 14 phút sáng.



Cologne, Đức.



Đối với Gray, vào nhà thờ ban đêm luôn có vẻ như bị ma ám. Ở ngôi nhà của Chúa này có lẽ không có nơi nào hơn. Từ sau vụ thảm sát vừa rồi, nhà thờ Cologne với cấu trúc Gô- tích lại càng toát ra vẻ thê lương.



Khi nhóm của anh đi qua quảng trường, Gray đã nhìn kỹ cái nhà thờ ở Cologne này, hay như dân địa phương vẫn gọi là Dom. Nhà thờ được những ngọn đèn pha chiếu sáng từ bên ngoài, lấp lánh giữa ánh sáng bạc và bóng tối. Nằm trọn bên mặt phía tây của nhà thờ là hai cái tháp khổng lồ. Cái tháp sinh đôi này cùng một độ cao, càng lên cao càng nhỏ lại, ở mỗi bên tháp có các cửa sổ lớn chỉ cách nhau vài mét. Trên tận đỉnh là những hình chữ thập trông ở dưới lên nhỏ xíu. Mỗi tầng của cấu trúc cao năm trăm feet này đều được trang trí bằng các bức phù điêu. Các cửa sổ vòm cong trèo lên tận đỉnh tháp, tất cả đều hướng lên bầu trời đêm và mặt trăng tít ở trên cao.



“Trông giống như họ chiếu sáng cho chúng ta.” Monk nói, kinh ngạc trước cảnh nhà thờ được thắp đèn sáng trưng. Anh ta xiết ba lô chặt vào vai hơn nữa.



Cả ba người đều mặc quần áo dân sự màu sẫm, nhằm tránh không ai để ý. Nhưng bên trong, mỗi người họ đều mặc loại áo giáp chống đạn bằng tinh thể lỏng. Những chiếc ba- lô của họ đều màu đen, nhãn hiệu Arcteryx được nhét đầy dụng cụ nghề kể cả vũ khí được một nhân viên CIA chuyền cho tại sân bay: Súng lục M-27 với loại đạn 40 ly trang bị ống ngắm ban đêm.



Monk còn mang thêm khẩu súng ngắn loại Scattergun cột vào đùi bên trái trong chiếc áo khoác dài. Vũ khí họ mang theo đã được tính toán như thông lệ cho những phi vụ đặc biệt, trong đó có cả loại đặc biệt có ống kính ngắm chính xác chuyên dùng vào ban đêm. Kat lại thích tloại không cần công nghệ cao. Cô mang theo tám con dao giấu trong người. Bất cứ lúc nào một lưỡi dao cũng có thể xuất hiện trong tay dù cho cô ở vị trí nào.



Gray kiểm tra lại chiếc đồng hồ thợ lặn Breitling của mình. Kim đồng hồ chỉ 2 giờ 15 phút. Họ đến đúng giờ.



Họ vượt qua quảng truờng. Gray nhìn một lượt xem trong góc tối có gì khả nghi không. Tất cả có vẻ yên ắng. Vào lúc khuya khoắt như thế này trong tuần, khu vực quảng trường gần như vắng tanh. Chỉ có một vài kẻ lang thang. Bọn họ đều say xỉn sau khi bước ra từ các quán bar, loạng choạng đi trên hè phố. Nhưng cũng có dấu vết của các cuộc tụ tập trước đó. Những bó hoa của những người đến viếng nằm lăn lóc ở góc quảng trường cùng với những vỏ lon bia. Đây đó còn sót lại các mẩu nến chưa cháy hết sau buổi lễ tưởng niệm những người vừa chết, còn có cả những tấm hình của nạn nhân. Một vài cây nến vẫn cháy, lửa lập loè trong đêm, đơn độc và buồn thảm.



Một buổi lễ thắp nến được tổ chức ở một nhà thờ kế bên cùng với lễ tưởng niệm cả đêm, có cả phần truyền dẫn trực tiếp lời cầu nguyện của Giáo hoàng. Tất cả đã kết hợp lại làm cho quảng trường vắng không một bóng người đêm nay.



Mặc dù vậy, Gray và đồng đội vẫn cảnh giác nghe ngóng mọi động tĩnh xung quanh. Họ không muốn mạo hiểm.



Đỗ trước cửa nhà thờ là một chiếc xe thùng có dán lô-gô cảnh sát thành phố ở hai bên. Chiếc xe được sử dụng như chỉ huy sở của các nhóm điều tra. Ngay sau khi vừa xuống sân bay, Gray đã được Logan Gregory, chỉ huy hành quân và là nhân vật số hai của Sigma, thông báo rằng tất cả các nhóm điều tra địa phuơng vào lúc nửa đêm đã bị điều ra ngoài nhưng họ sẽ trở lại vào sáng hôm sau, lúc 6 giờ. Từ giờ đến lúc đó sẽ chỉ có bọn họ trong nhà thờ.



Nhưng, thực ra không phải chỉ có bọn họ.



Một trong những chiếc cửa ngách của nhà thờ được mở ra khi họ tới gần. Một bóng người cao, gầy đứng trước nền ánh sáng hắt ra từ bên trong nhà thờ. Một cánh tay giơ lên.



“Ngài Verona”. Kat khẽ thì thầm, khẳng định đúng ông ta.



Vị linh mục đi qua hàng rào do cảnh sát dựng quanh nhà thờ. Ông nói với một trong hai lính gác, đứng ở đó để chắn mọi con mắt tò mò vào nơi xảy ra vụ án mạng, rồi ra hiệu ba người đi vào.



Họ theo ông vào bên trong.



“Đại uý Bryant,” ông khẽ nói với nụ cười đôn hậu. “Mặc dù hoàn cảnh thật khủng khiếp nhưng tôi rất vui được gặp lại cô”.



“Cảm ơn, giáo sư”. Kat đáp lại với nụ cười thân thiện. Vẻ mặt cô dịu lại trước tình bạn thật sự.



“Hãy gọi tôi là Vigor”.



Họ bước vào gian tiền sảnh nhà thờ.



Ông khép cửa, khoá lại rồi nhìn chăm chú hai đồng đội của Kat.



Gray cảm thấy sức nặng của cái nhìn. Người đàn ông này cũng cao gần bằng anh nhưng tầm thước hơn. Mái tóc muối tiêu của ông trải ngược phía sau, hơi cuộn sóng. Ông mặc một chiếc áo khoác cắt rất mốt, bên trong là chiếc quần gin xanh thẫm và áo sơ mi cổ khoét hình chữ V, kiểu của các linh mục Vatican.



Tuy nhiên, chính cái nhìn chằm chặp của ông khiến Gray để ý. Mặc dù điệu bộ vồn vã nhưng ở con người này vẫn có cái gì đó thật lạnh lùng. Ngay cả Monk cũng phải nhô đôi vai lên trước cái nhìn của linh mục.



“Vào trong đi” Vigor nói “Chúng ta phải bắt đầu ngay lập tức”.



Ông dẫn mọi người đến gian thờ, mở cánh cửa đang khép lại rồi vẫy họ vào bên trong.



Bước vào chính giữa gian thờ, Gray ngay lập tức để ý hai thứ. Đầu tiên là mùi vị. Dù nồng nặc hương trầm nhưng vẫn cảm nhận được thoang thoảng mùi khét của thứ gì đó bị đốt cháy.



Đấy cũng chưa phải là tất cả những gì thu hút sự chú ý của anh. Một phụ nữ đứng dậy từ chỗ hàng ghế cầu nguyện để chào họ. Cô trông giống như Audrey Hepburn hồi còn trẻ: da trắng như tuyết, mái tóc nâu sẫm xòa ra hai bên được cài sau vành tai, đôi mắt màu caramen. Cô không cười. Cặp mắt cô nhìn cả nhóm một lượt, dừng lại lâu hơn ở chỗ Gray.



Anh nhận ra nét hao hao giống nhau giữa hai người, chủ yếu ở cách nhìn chăm chú của cô hơn là khuôn mặt.



“Cháu gái tôi” Vogor giới thiệu “Trung úy Rachel Verona”.



Họ xong phần giới thiệu rất nhanh. Dù cho không có sự phân cách nào bên ngoài nhưng hai nhóm vẫn tiếp tục tách biệt. Rachel vẫn giữ một khoảng cách, thậm chí cứ như sẵn sàng sử dụng khẩu 9 ly của cô nếu cần thiết. Gray cũng để ý bao súng lục của cô bên trong áo vét. Khẩu Berretta 9 ly.



“Chúng ta cần bắt đầu ngay” Vigor nói. “Vatican đã tạo điều kiện cho chúng ta đôi chút riêng tư, thời gian riêng để cầu nguyện tại giáo đường sau khi những xác chết cuối cùng được mang đi”.



Ông dẫn họ đến chỗ lối đi giữa.



Gray chú ý những chỗ được đánh dấu bằng băng dính trên các hàng ghế. Mỗi mẩu giấy nhỏ xíu được đính vào, ghi lên đó tên của người chết. Anh bước quanh những đường vạch bằng phấn trắng trên sàn nhà thờ. Máu tuy đã được lau sạch nhưng vẫn còn những vệt sẫm trên nền đá của nhà thờ. Những mẩu nhựa màu vàng đánh dấu vị trí vỏ đạn đã được những chuyên gia tội phạm nhặt đi rồi.



Anh nhìn ngang qua giáo đường, phân vân không hiểu trông nó như thế nào nếu bước chân vào lần đầu tiên. Những xác chết nằm ngổn ngang khắp nơi, mùi máu cháy nồng nặc. Anh cũng gần như cảm nhận được tiếng vọng của nỗi đau còn lưu giữ trong nền đá hay trên vòm mái. Cảm nhận đó làm anh thấy ớn lạnh. Dù gì anh cũng là một người theo đạo Cơ đốc. Thật đau lòng khi thấy vụ thảm sát đã vượt qua ngưỡng bạo lực thông thường. Đấy là điều báng bổ đối với Chúa. Lũ quỷ Satan.



Liệu có phải đó là một phần động cơ không?



Biến một buổi lễ thành một vụ thảm sát đen tối.



Câu nói của linh mục thu hút sự chú ý của anh “Kia là nơi tìm thấy cậu bé đang lẩn trốn”. Ông chỉ vào phòng xưng tội sát bức tường phía bắc, nằm giữa giáo đường dài hút.



Jason Pendlenton, người sống sót duy nhất.



Phần nào Gray cũng cảm thấy hài lòng vì không phải mọi người đều bị giết hết trong cái đêm đẫm máu đó. Bọn gây tội ác đã mắc một sai lầm. Chúng đều có thể sai lầm. Con người mà.



Anh tập trung vào suy nghĩ ấy. Mặc dù hành động của chúng là của quỷ dữ nhưng bàn tay gây tội ác là của con người như những điều khác. Vậy chúng là quỷ dữ dưới hình dạng con người.



Nhưng con người đều có thể bị bắt và trừng phạt.



Họ đã tới gian thờ riêng được xây cao hơn xung quanh trên đó có bàn thờ bằng đá cẩm thạch và cái ghế cao của vị giám mục. Vigor và cô cháu làm dấu thánh giá. Vigor quỳ một chân làm lễ rồi đứng dậy. Ông dẫn họ đi qua một cái chắn ngang. Phía sau cái chắn, bàn thờ cũng được đánh dấu bằng phấn, mặt đá cẩm thạch bị hoen ố. Cảnh sát đã ngăn chỗ này lại.



Lật nghiêng một bên trên sàn, làm vỡ cả chỗ đá lát nền là cái hòm đựng quan tài bằng vàng. Mặt trên của nó tựa vào hai bậc đá. Gray tháo balô ra rồi ngồi xuống.



Cái quan tài được làm bằng vàng trông như một nhà thờ thu nhỏ, với những cửa sổ vòm cong và cảnh sắc khắc trạm bằng vàng và đá quý các loại mô tả cuộc đời của đức chúa Jesu từ khi ban thưởng cho các vị Tiên tri đến khi bị đóng đinh câu rút.



Gray đeo đôi găng tay cao su. “Có phải di cốt đã được táng ở đây không?”



Vigor gật đầu. “Từ thế kỷ thứ XIII”



Kat đến cạnh anh, “Tôi thấy họ đã lấy dấu vân tay rồi,“ Cô chỉ vào chỗ bột màu trắng còn sót lại ở một số nét khắc chạm.



“Không tìm thấy dấu vân tay nào.” Rachel nói.



Monk nhìn quanh nhà thờ. “Cũng không có gì nữa bị lấy đi?”



“Người ta đã tiến hành kiểm kê toàn bộ,” Rachel tiếp tục. “Họ đã có dịp phỏng vấn tất cả nhân viên, kể cả các linh mục.”



“Tôi muốn gặp nói chuyện với họ.” Gray khẽ nói, vẫn quan sát cái hộp.



“Họ ở phía bên kia sân.” Rachel đáp, giọng như rắn lại. “Chả ai nghe hoặc nhìn thấy gì cả. Nhưng nếu anh muốn mất thời gian của mình, xin cứ việc.”



Gray ngước nhìn cô. “Tôi chỉ nói có thể tôi muốn nói chuyện với họ”.



Cô nhìn lại không chớp mắt. “Tôi cảm thấy vụ này là một sự phối hợp chung. Nếu như chúng ta kiểm tra lại công việc của nhau mỗi bước đi, e rằng sẽ không đi đến đâu cả.”



Gray hít một hơi dài. Mới vào cuộc được một phút, anh đã giẫm vào ngón chân người khác. Lẽ ra mình phải đọc được sự hiếu thắng của cô ta từ trước và bước đi thận trọng hơn.



Vigor đặt tay lên vai cô cháu gái. “Tôi đoan chắc với anh rằng cuộc thẩm vấn rất triệt để. Trong các đồng nghiệp của tôi, những câu nói thô lỗ luôn thái quá so với ý thức tốt, tôi sợ anh có thể phải hứng thêm điều gì đó không hay nhất là khi họ bị thẩm vấn bởi một ai đó không mặc áo linh mục”.



Monk nói: “Thôi được rồi. Nhưng liệu mọi người có muốn nghe tôi nói không nào?”



Mọi cặp mắt đều đổ dồn về anh ta. Anh ta cười ranh ma. “Tôi tin là mình đang hỏi xem còn có cái gì nữa bị lấy đi không?”



Rachel nhìn anh chàng không khoan nhượng. “Như tôi đã nói, không có…”



“Vâng, cảm ơn trung uý. Nhưng tôi tò mò muốn biết liệu còn có những di vật khác được giữ ở nhà thờ này. Một vật nào đó bọn ăn cắp không đem đi.”



Rachel chau mày, bối rối.



“Tôi đồ rằng,” Monk giải thích, “rằng những gì bọn ăn cắp không đem đi không được thông tin như những gì chúng đã lấy.” Anh ta nhún vai.



Mặt cô bỗng hơi dãn ra khi nghe điều đó. Sự cáu giận biến mất.



Gray thầm nghĩ sao Monk lại làm vậy.



Linh mục trả lời Monk. “Ở đây có một gian đựng đồ quý. Nó chứa những thứ giá trị từ thời nhà thờ Rô- măng, từ cây thánh giá của Thánh Peter. Cùng với vài mẫu thánh giá của đức chúa Jesu. Cũng có những thứ của một vị giám mục Gô- tích vào thế kỷ XIV và một thanh kiếm khảm ngọc của Elector từ thế kỷ XV.”



“Và không có gì bị lấy đi từ gian chứa đồ đó?”



“Tất cả đều được kiểm kê.” Rachel trả lời. Mắt cô vẫn tập trung. “Không có gì nữa bị lấy cắp”.



Kat ngồi xuống cùng với Gray nhưng mắt cô vẫn nhìn nhóm người đang đứng. “Vậy chỉ có chỗ di cốt bị lấy trộm đi. Tại sao?”



Gray hướng sự chú ý của mình vào cái quan tài đang mở. Anh lấy ra một cái bút soi rồi kiểm tra bên trong. Không có đường chạm vạch, chỉ là bề mặt bằng vàng nhẵn nhụi. Anh nhận thấy có một chút bột trắng rớt xuống bên dưới. Bột? Tro hài cốt?



Chỉ có một cách để tìm ra.



Anh quay lại ba-lô, lấy ra bộ đồ thu thập chứng cứ. Anh bật một cái máy hút nhỏ xíu chạy bằng pin để hút chất bột đó vào một ống nghiệm vô trùng.



“Anh đang làm gì vậy?” Rachel hỏi.



“Nếu đây là bột từ chỗ di cốt, có thể trả lời được vài câu hỏi.”



“Ví dụ như?”



Anh ngồi xuống kiểm tra ống nghiệm. Có tới hơn một gam chất bột màu xám. “Chúng ta có thể thử xem thứ bột đó có đúng là di cốt đã có từ lâu không. Sẽ biết liệu thứ di cốt bị đánh cắp có phải thuộc về người đã sống từ thời đức chúa Jesu. Hoặc không phải. Biết đâu tội ác này được thực hiện nhằm thu hồi di cốt của ai đó trong Long Đình. Một vị lãnh chúa già hoặc hoàng tử nào đấy.”



Anh niêm phong ống nghiệm rồi cất đi. “Tôi cũng muốn lấy ít mẫu nắp hộp thuỷ tinh bị đập vỡ trong cái vỏ đựng an toàn bên ngoài quan tài. Có thể sẽ cho biết tại sao thiết bị đó lại đập vỡ được thuỷ tinh chống đạn bắn xuyên. Các phòng thí nghiệm của chúng tôi có thể kiểm tra các thứ này để tìm ra phương thức đập”.



“Tôi sẽ làm điều đó.” Monk nói và tháo cái balô ra.



“Thế còn đá?” Rachel hỏi. “Hoặc các vật liệu khác bên trong nhà thờ?”



“Cô định nói gì?” Gray hỏi.



“Thứ gì đấy đã gây ra những cái chết cho những người đi lễ có thể đã tác động đến đá, cẩm thạch và nhựa. Cái mà mắt thường không nhìn thấy.”



Gray đã không lưu ý điều này. Lẽ ra anh phải làm chuyện đó. Monk nhìn anh rồi nháy mắt. Nữ trung uý cảnh sát đang chứng tỏ mình không chỉ là một cô gái đẹp.



Gray quay lại Kat để tổ chức phương án thu thập. Nhưng xem ra cô còn đang bận tính toán điều gì. Từ nãy Gray đã để ý cô có vẻ rất quan tâm đến cái quan tài bằng vàng, tất cả hình như vẫn trong đầu cô. Giờ thì cô ngồi xổm trên nền đá cẩm thạch của nhà thờ, gập người xuống vật gì đó.




Nhưng điều đầu tiên họ cần có thêm những thông tin mới.



Có tiếng chìa khóa mở cửa. Gray đặt tay lên khẩu súng. Anh không muốn bị bất ngờ. Nhưng chính là ngài Verona vừa trở về sau khi đi tuần tra.



Vigor đẩy cửa bước vào. Vẻ mặt rất nghiêm trọng.



“Có gì vậy?”



“Cậu bé đã chết.” Ông nói.



Những người khác tiến đến gần hơn.



Vigor giải thích, “Jason Pendleton. Cậu bé sống sót sau vụ thảm sát. BBC vừa đưa tin. Cậu bé bị giết chết ngay trong phòng bệnh viện. Nguyên nhân của cái chết hiện nay vẫn chưa được biết, nhưng người ta nghi ngờ có sự gian trá. Đặc biệt khi nó diễn ra cùng một lúc với vụ đánh bom nhà thờ.”



Rachel lắc đầu buồn bã.



Trước đó, Gray đã thấy nhẹ nhõm khi thấy mọi người trở về an toàn, chỉ bị sây sát và hoang mang đôi chút. Anh đã quên mất không để ý đến người sống sót của vụ thảm sát thứ nhất. Nhưng nó mang một ý nghĩa thật kinh khủng. Vụ tấn công vào nhà thờ thực ra chỉ là một màn kịch nhằm xóa sạch những dấu vết gì còn lại. Và tất nhiên, điều đó bao gồm cả chuyện cho nhân chứng duy nhất câm lặng vĩnh viễn luôn.



“Ngài có biết thêm gì nữa không?” Gray hỏi.



Anh đã cử vị linh mục xuống dưới nhà sau khi họ đăng ký phòng tại khách sạn để đánh giá tình hình thực tế tại nhà thờ. Linh mục là người thích hợp nhất. Ông ta nói tiếng Đức nhuần nhuyễn và cái áo linh mục của ông sẽ không làm ai nghi ngờ cả.



Ngay đến tận bây giờ, còi báo động và xe cảnh sát vẫn rền vang trên đường phố. Nhìn qua cửa sổ, họ thấy quang cảnh của Cathderal Hill. Một đám xe cứu hỏa và các xe cấp cứu khác đang tập trung ở đó. Khói vẫn cuộn lên trên bầu trời đêm. Đường phố đông nghịt người đến xem và xe nhà báo.



“Tôi cũng không biết gì thêm ngoài những điều chúng ta đã biết.” Vigor nói. “Trong nhà thờ lửa vẫn tiếp tục cháy. Nó vẫn chưa bị dập tắt nhưng không lan rộng ra nữa. Tôi có nói chuyện với một linh mục ở chỗ ở. Không ai bị thiệt mạng. Nhưng họ lo lắng về số phận của tôi và cháu gái tôi.”



“Tốt”. Gray nói, liếc nhìn Rachel. “Như tôi nói lúc nãy, bọn chúng nghĩ là lúc này chúng ta đã bị tiêu diệt. Hãy để cho chuyện đó cứ như vậy càng lâu càng tốt. Chừng nào chúng chưa biết chúng ta còn sống, chúng sẽ chưa đi lùng sục tìm kiếm khắp nơi.”



“Và chúng ta cũng không phải nã súng nữa.” Monk nói. “Tôi đặc biệt thích điều đó”.



Kat đang làm việc trên máy tính xách tay nói với một chiếc máy ảnh số. “Những tấm ảnh đang được đưa lên.” Cô nói.



Gray đứng dậy bước tới cái bàn. Monk và những người khác không phải chỉ lo kiếm chỗ trú ẩn trong chiếc xe sau khi họ trốn thoát mà còn tranh thủ địa điểm này để chụp một vài tấm ảnh của những kẻ tham gia vụ tấn công. Anh thấy thật ấn tượng với sự tháo vát của họ.



Những tấm hình nho nhỏ đen trắng hiện dần trên màn hình.



“Đây rồi.” Rachel nói chỉ vào một tấm hình. “Đây là cái gã đã tóm lấy tôi.”



“Hắn là chỉ huy của nhóm.” Gray nói.



Kat nhấp đúp để phóng to tấm ảnh. Gã đang lao ra khỏi nhà thờ. Tóc đen, để dài gần đến vai. Không để râu, sống mũi thẳng. Trông bụi bặm không có nét gì đặc biệt. Ngay cả trong ảnh trông y vẫn có vẻ chỉ huy.



“Nhìn thằng chó chết này,” Monk nói. “Con mèo ăn con chuột.”



“Có ai nhận ra hắn không?” Gray hỏi.



Tất cả lắc đầu.



“Tôi có thể gửi bức ảnh đó về bộ phận nhận dạng của Sigma.” Kat nói.



“Chưa được.” Gray nói, trả lời cái chau mày của cô. “Chúng ta cần tiếp tục chưa nối liên lạc vội.”



Anh nhìn quanh phòng. Thông thường anh thích hoạt động đơn chiếc, thoát khỏi sự kiềm tỏa của đại ca dòm ngó, giờ đây anh không thể đóng vai con sói cô độc. Anh đã có cả nhóm, trách nhiệm đè nặng trên vai. Cặp mắt của anh hướng sang Vigor và Rachel. Không phải chỉ có riêng nhóm của anh thôi. Tất cả bọn họ đều hướng về anh. Đột nhiên, anh cảm thấy quá sức. Anh không muốn gì hơn là liên lạc với Sigma, trao đổi với Giám đốc Crowe, rũ trách nhiệm của mình.



Nhưng anh không thể… ít nhất là lúc này.



Gray tập hợp các suy nghĩ và quyết tâm của mình. Anh hắng giọng. “Một ai đó đã biết chúng ta một mình có mặt trong nhà thờ. Rất có thể là chúng đã do thám nhà thờ hoặc đã có tin tình báo trước.”



“Một lỗ rò” Vigor nói, xoa bộ râu dưới cằm.



“Có khả năng, nhưng điều tôi chưa thể nói được là nó từ đâu ra.” Gray liếc nhìn Vigor. “Từ chỗ chúng tôi hay ở chỗ các ngài.”



Vigor thở dài và gật đầu. “Tôi e rằng chính chúng tôi phải lãnh trách nhiệm. Long Đình luôn tìm cách lôi kéo thành viên trong Vatican. Và vụ phục kích này nối gót sau những cuộc tấn công vào Rachel và bản thân tôi làm tôi không thể không nghĩ rằng vấn đề có thể nằm ngay ở Giáo hội.”



“Không nhất thiết phải như vậy,” Gray trả lời. Anh quay trở lại máy xách tay và chỉ vào một tấm ảnh nhỏ nữa. “Hãy phóng to bức này xem nào.”



Kat nhấn đúp chuột. Hình ảnh một phụ nữ mảnh dẻ trèo vào bên trong một trong hai chiếc xe hiện dần lên trên màn hình. Khuôn mặt của cô ta chỉ mờ nhạt.



Gray liếc nhìn những người khác. “Có ai biết cô ta không?”



Lại những cái lắc đầu.



Monk nhìn gần vào hơn. “Nhưng tôi không quan tâm đến chuyện biết cô ta.”



“Đây chính là người phụ nữ đã tấn công tôi ở Fort Detrick.”



Monk lui lại, bỗng nhiên thấy người phụ nữ kém hấp dẫn hẳn đi.



“Nhân viên của Hiệp hội à?’



Vigor và Rachel đều thấy bối rối. Gray không có thời gian để đi sâu vào toàn bộ lịch sử của Hiệp hội, anh chỉ nói tóm tắt những nét chính về tổ chức này: một tổ chức khủng bố có liên hệ với tổ chức Maphia Nga và sự quan tâm của nó đối với các công nghệ mới.



Sau khi anh kết thúc, Kat hỏi. “Vậy anh có nghĩ vấn đề có thể ở chỗ chúng ta không?”



“Sau vụ Fort Detrick…” Gray chau mày. “Ai có thể nói an ninh bị rò rỉ ở chỗ nào? Nhưng sự thật là Hiệp hội đang ở đây, hành động cùng với Long Đình, tôi không thể không nghĩ rằng chúng hợp tác với nhau vì sự tham gia của chúng ta. Nhưng tôi nghĩ chúng đã muộn trong trò chơi cũng như chúng ta…”



“Tại sao anh lại nói điều đó?” Rachel hỏi.



Gray chỉ vào màn ảnh. “Long nương để cho tôi thoát.”



Sự kinh ngạc bao trùm.



“Anh có chắc vậy không?” Monk hỏi.



“Chắc như đinh đóng cột”. Gray xoa cùi tay nơi cô ả đã bắn khi anh chạy.



“Tại sao cô ta lại làm chuyện đó?” Rachel hỏi.



“Bởi vì cô ta đang chơi trò với Long Đình. Như tôi đã nói, lý do duy nhất Hiệp hội được huy động vào vụ mạo hiểm này vì Sigma đã tham gia. Long Đình muốn Hiệp hội giúp đỡ để bắt sống hoặc tiêu diệt chúng ta.”



Kat gật đầu. “Và nếu chúng ta chết thì Hiệp hội không còn cần thiết nữa. Mối liên minh sẽ chấm dứt và Hiệp hội sẽ không bao giờ biết được Long Đình muốn điều gì.”



“Nhưng bây giờ Long Đình nghĩ rằng chúng ta đã chết.” Rachel nói.



“Chính xác như vậy. Đó là một lý do nữa để cho chuyện này cứ tiếp tục như họ tưởng. Nếu chúng ta đã chết, Long Đình sẽ cắt đứt mối quan hệ với Hiệp hội.”



“Bớt đi một đối thủ.” Monk nói.



“Vậy chúng ta sẽ làm gì tiếp?” Kat hỏi.



Chuyện đó vẫn còn bí hiểm. Họ không còn chỉ dẫn nào… trừ một điểm. Gray liếc nhìn vào chiếc balô của anh. “Thứ bột chúng ta lấy được ở hòm quan tài. Nó trở thành chìa khóa cho mọi chuyện. Nhưng tôi không biết nó hợp với chìa khóa nào. Và nếu chúng ta không thể gửi về Sigma để thử…”



Vigor nói chen vào. “Tôi nghĩ anh nói đúng. Câu trả lời nằm ở chỗ bột đó. Nhưng có một câu hỏi hay hơn là nó là cái gì”



Linh mục đột nhiên dừng lại, cặp mắt ông nheo nheo. Ông vỗ vỗ tay lên trán. “Cái gì nhỉ…” Ông lẩm bẩm.



“Bác?” Rachel hỏi với vẻ băn khoăn.



“Có cái gì đó… trong đầu mà không thể nhớ được.”



Gray nhớ lại biểu hiện tương tự của ông khi ông trích một câu nói trong một cuốn sách.



Linh mục nhăn nhó. “Tôi không thể nào nghĩ ra được, giống như cố đuổi bắt bong bóng xà phòng trên tay. “Ông lắc đầu. “Có thể tôi quá mệt mỏi.”



Gray cảm giác ông ta thực lòng ở hầu hết mọi chuyện. Nhưng ông ta cũng vẫn còn giấu điều gì đó, một điều gì bắt đầu từ chữ cái. Trong một thoáng, Gray nhìn thấy sự sợ hãi phía sau sự bối rối.



“Vậy thì câu hỏi tốt hơn là gì?” Monk hỏi, quay trở lại dòng suy nghĩ ban đầu. “Ông vừa bắt đầu nói gì đó về một câu hỏi tốt hơn thứ bột ấy là gì?”



Vigor gật đầu, tập trung trở lại “Đúng rồi. Có thể chúng ta cần hỏi tại sao thứ bột này có thể tới đây. Mỗi năm một lần, di cốt được nhấc cẩn thận ra khỏi quan tài và toàn bộ được lau chùi sạch sẽ. Tôi chắc rằng chúng được phủi bụi và lau chùi sạch cả ở bên ngoài.



Kat ngồi thẳng dậy. “Trước cuộc tấn công, chúng ta băn khoăn không biết có phải thiết bị đã làm thay đổi chỗ vàng trong cái hộp biến thành thứ bột trắng.”



“Có phải là đấy là cách chúng được đưa vào không?” Rachel hỏi.



“Có thể,” Monk nói. “Hãy nhớ cây thập tự có nam châm ở nhà thờ. Một điều gì đó kỳ quặc đã xảy ra ở đấy và nó tác động đến kim loại. Vậy tại sao không phải là vàng?”



Gray hy vọng anh đã có thêm nhiều thời gian để thu thập các mẫu, tiến hành thêm một số phép thử nữa. Nhưng với việc nhà thờ bị đánh bom xăng…”



“Không.” Kat nói thở dài cáu kỉnh. “Hãy nhớ rằng chất bột không chỉ là vàng. Chúng ta cũng đã phát hiện các chất khác. Có thể là platinum hoặc cái gì khác nữa trong nhóm kim loại có khả năng truyền dẫn những chất có thể chuyển hóa thành bột ở trạng thái -m.”



Gray chậm rãi gật đầu, nhớ lại bạc lẫn trong chỗ vàng bị chảy.



“Tôi không tin là bột đến từ cái hộp đựng.”



Monk chau mày. “Nhưng nếu như nó không đến từ chỗ vàng trong hộp và nếu như được lau chùi mỗi năm… thì còn thêm cái gì nữa?”



Mắt Gray mở to ra vì anh đã hiểu ra. Anh hiểu sự kinh ngạc của Kat. “Nó đến từ chỗ di cốt.”



“Không còn sự giải thích nào khác nữa.” Kat đồng ý.



Monk đốp lại, lắc đầu.



“Điều đó nói thì dễ. Chúng ta không có chỗ di cốt ở đây để chứng minh giả thuyết của cô. Chúng đã đem đi tất cả.”



Rachel và Vigor tự dưng nhìn nhau.



“Cái gì?” Gray hỏi.



Rachel bắt gặp ánh mắt của anh. Anh đọc được sự phấn khích trong điệu bộ của cô. “Chúng không phải có toàn bộ chỗ di cốt.”



Đôi lông mày của anh nheo lại. “Ở đâu?”



Vigor trả lời. “Ở Milan”.