Động Đình Hồ Ngoại Sử
Chương 10 : Tục nhật chu nam tử Kim nhật bạch phát thôi
Ngày đăng: 14:46 18/04/20
Phương-Dung tiếp lời :
– Vậy thì cháu sẽ mang theo các tướng Phùng Dị, Vương Thường, Lai Háp,
Chu Á-Dũng đánh Công-tôn Thi. Còn Nghiêm đại-ca với Phùng sư-tỷ đánh
Công-tôn Tư. Thái sư-thúc đi theo đạo này, vì bên Thục có nhiều cao thủ
lắm, không tầm thường đâu. Chỉ nguyên Công-tôn Tư đã ngang tay với
Nghiêm đại-ca. Sau khi đánh tan quân Công-tôn Thi, cháu cùng Ngô tướng
quân đánh vào Lục-giang trấn, bao vây Thành-đô ngăn không cho Công-tôn
Thuật chạy về phía Đông.
Nghiêm Sơn hỏi Phùng Vĩnh-Hoa:
– Sư muội đánh nhau với Công-tôn Tư lâu ngày, sư-muội hiểu rõ hết khả
năng tướng sĩ Hán, Thục, vậy theo ý sư-muội nên đánh Cẩm-dương như thế
nào. Vì Công-tôn Thuật hiện dồn đại quân ở đây để ngăn ta.
Phùng Vĩnh-Hoa im lặng suy nghĩ. Trước mắt nàng là đám quân ở Dương-bình quan khóc như mưa, như gió, khi quân Hán chiếm thành. Biết bao nhiêu
binh tướng Thục tự tử không chịu đầu hàng. Gương mặt thành khẩn của
Công-tôn Tư, y khẩn khoản xin nàng với anh hùng Lĩnh-nam thực hiện lời
giao ước giữa Đặng Thi-Sách với Công-tôn Thiệu. Nhất là giao tình giữa
Thiên-sơn lão tiên với Khất đại-phu. Nàng được thư của Đặng Thi-Sách,
Đào Thế-Kiệt rằng Đinh Đại và Trưng Trắc sang Trung-nguyên quan sát tình hình, rồi đưa ra quyết định tại chỗ, tiếp tục trợ Hán đánh Thục hay có
thái độ khác. Thư tới đã lâu mà sao không được tin tức gì của họ? Nàng
đoán có lẽ giờ này Đinh Đại, Trưng Trắc đến với đạo Lĩnh-nam, bàn kế
sách với Đào Kỳ, Nam-hải nữ hiệp. Vì vậy nàng muốn ngừng tiến quân, chờ
tin tức đạo Lĩnh-nam.
Phùng Vĩnh-Hoa đáp:
– Bây giờ Công-tôn Thuật dồn hết lực lượng ra đối đầu với đạo quân
Hán-trung. Vậy phải báo cho đạo Lĩnh-nam đánh Thành-đô ngay. Nhờ Tham
quân Lê Hữu-Bằng đi với Quế-Hoa đến Việt-tây báo cho Đào hiền-đệ tiến
quân ngay tức thì.
Quế-Hoa khẳng khái nhận lời. Nghiêm Sơn, Phương-Dung cùng gọi riêng Quế-Hoa ra chỗ khuất đưa cho nàng hai chiếc hộp dặn:
– Sư muội đưa hộp này cho Đào sư-đệ và hộp này cho Hoàng sư-tỷ giùm ta.
Quế-Hoa mở to mắt nhìn hai người rồi nheo mắt cười:
– Hai hộp này là cẩm nang diệu kế để Đào đại-ca đánh giặc phải không?
Phương-Dung lắc đầu:
– Không! Đó là quà của Nghiêm đại-ca gửi cho Hoàng sư-tỷ và ta gởi Đào đại-ca.
– Như vậy là quà riêng tức là chuyện riêng chứ không phải chuyện công phải không?
– Ừ đây là chuyện riêng của ta với Hoàng sư tỷ.
– Thế thì tiểu muội không mang đâu.
– Tại sao?
Quế-Hoa nheo mắt:
– Lĩnh-nam vương Tả tướng-quân gửi quà cho Vương-phi. Quân-sư gửi quà
cho phu quân, đây là chuyện riêng tôi không làm. Muốn tôi làm phải trả
công.
Phương-Dung biết Quế-Hoa tính còn trẻ con hay đùa, nàng nói:
– Được sau khi đi về, sư-muội muốn gì ta sẽ tặng.
Quế-Hoa cùng Vương Hữu-Bằng lên đường đến Việt-tây.
Phùng Vĩnh-Hoa đợi Phương-Dung với Nghiêm Sơn trở lại rồi nói tiếp:
– Chúng ta không cần đánh chiếm Cẩm-dương làm gì. Cứ dàn quân dùng dằng
với địch, cho hai đạo kia tiến vào Thành-đô. Vậy ngày mai Nghiêm
vương-gia đi cùng với Thái-sư thúc Khất đại-phu mang theo Thần-nỏ Âu-lạc đến Cẩm-dương, chúng ta trực diện đánh nhau với địch
Sáng hôm sau, Nghiêm Sơn mời Khất đại-phu cùng Vĩnh-Hoa, Thần-nỏ Âu-lạc
tứ hùng đi theo đến Cẩm-dương dàn trận ra cánh đồng. Bên Thục, Thái-tử
Công-tôn Tư cũng dàn quân đối trận. Tuy thành mất, nguy đến nơi, mà
tướng sĩ Thục vẫn khẳng khái, hàng ngũ chỉnh tề.
Quân-sư Thục là Tào Mạnh gò ngựa hỏi:
– Chúng ta đánh nhau mãi, chết nhiều quân quá rồi, bây giờ chúng ta cùng nhau đấu võ, không biết bên Hán có tướng nào nhận không?
Phùng Vĩnh-Hoa thủng thỉnh thúc ngựa ra trước trận:
– Tại sao lại không? vậy chúng tôi để bên Thục cho đầu đề trước.
Trấn-bắc đại tướng-quân Ngụy Đảng phi ngựa ra nói:
– Nhất sinh tôi biết đấu kiếm, đánh chưởng và bắn tên. Vậy có tướng nào dám đấu cùng ta không?
Nghiêm Sơn từng nghe Ngụy Đảng có biệt hiệu là Tiểu Dưỡng Do-Cơ thì biết tiễn thủ của y không phải tầm thường. Trong lần theo Triệu Khuôn mang
quân cứu Ngỗi Hiêu ở Lũng-thượng, khi bị quân Phùng Dị đánh gấp quá,
Ngỗi Hiêu bỏ thành chạy. Một mình Ngụy Đảng trên gò cao với một cây
cung, bất cứ tướng Hán nào tiến lên đều bị bắn chết. Sau đích thân Phùng Dị phi ngựa lên, y bắn bốn mũi trên đầu Phùng gạt được, đến lần thứ năm thì y bắn hai mũi một lúc, một hướng cổ, một hướng bụng. Phùng gạt mũi
hướng bụng, thì mũi tên khác bay tới cắt đứt dây cương ngựa, vì vậy quân Hán phải lui lại. Bây giờ nghe Ngụy Đảng thách đấu bắn cung, Nghiêm Sơn nhìn các tướng Hán ngơ ngác chưa biết tính sao.
Cao Cảnh-Kiệt phi ngựa ra nói:
– Ta là Cao Cảnh-Kiệt, người Việt đất Lĩnh-Nam. Ta muốn cùng tướng quân
thi bắn tên. Vậy tướng quân cứ ra đề đi, ta sẵn sàng tiếp.
Nghiêm Sơn tỉnh ngộ:
– Mình thực lú lẫn, có Thần-nỏ Âu-lạc ở đây mà quên đi.
Ngụy Đảng chỉ vào cây cung nói:
– Chúng ta mỗi người dùng ba mũi tên và một con ngựa, cùng đấu với nhau ở trước ba quân. Chúng ta sai cắm bốn góc bốn cây cờ. Nếu ai chạy ra
ngoài sẽ bị thua. Cung ai gãy cũng bị thua, dĩ nhiên ngã ngựa cũng bị
thua.
Cao Cảnh-Kiệt cười:
– Thế thì được rồi, chúng ta không ai mặc giáp, thế mới gọi là anh hùng. Ngụy tướng quân có đồng ý không?
– Dám chứ ! Nhưng ta đặt vấn đề, nếu thua ta phải đầu hàng bên Hán, ngược lại ngươi thua cũng phải đầu hàng bên ta.
Cao Cảnh-Kiệt gật đầu:
– Cứ thế! Nào chúng ta cùng đấu.
Cao Cảnh-Kiệt trở về trận, bỏ áo giáp cỡi ngựa trận không yên phi ra
trước trận. Chàng chỉ mặc có chiếc áo nâu, đầu chít khăn, đúng theo lối
của dân Việt đất Lĩnh-Nam. Tướng sĩ hai bên reo hò ầm ĩ. Kiệt thúc ngựa
cho phi vòng vòng trong khu vực cắm cờ.
Ngụy Đảng bỏ giáp trụ, phi ngựa chạy trước mặt Cao Cảnh-Kiệt. Cuối cùng hai tướng gò ngựa đứng đối diện nhau.
Công-tôn Tư cho nổ một tiếng pháo. Cao Cảnh-Kiệt phi ngựa chạy quanh
bãi. Ngụy Đảng thúc ngựa đuổi theo. Bỗng Ngụy Đảng nạp tên bắn mũi thứ
nhất. Tiếng tên xé gió bay đến giữa lưng Cao Cảnh-Kiệt. Kiệt vọt người
lên cao, mũi tên đi dưới chân. Khi mũi tên lướt qua dưới chân chàng, rơi xuống đất, thì chàng đáp xuống lưng ngựa. Chàng cặp chân vào bụng ngựa, lộn người xuống thò tay xuống nhặt mũi tên. Hai ngựa chạy cách nhau một khoảng ngắn. Quân sĩ hai bên reo hò vang trời đất. Vì người bắn đã giỏi mà người tránh càng giỏi hơn.
Bên trận Hán, Nghiêm Sơn nói với Vĩnh-Hoa:
– Người ta gọi bốn anh em họ Cao là Thần-nỏ cũng phải. Với mũi tên vừa
rồi, nếu là ta, ta chỉ có nước chết, chứ làm sao tránh nổi. Cao tứ-đệ
giỏi thật, hèn chi ngày xưa Cao-cảnh hầu dùng Thần-nỏ bắn, Triệu Đà bị
bại biết bao phen. Ngày nay đồ tử, đồ tôn vẫn còn giữ được oai phong cũ.
Ngụy Đảng phi ngựa đuổi theo bén gót Cao Cảnh-Kiệt. Y nạp tên bắn mũi
thứ nhì, nhắm ngay đít ngựa Cao Cảnh-Kiệt. Cao Cảnh-Kiệt nghe tiếng gió
biết nguy cơ. Người bên Hán la hét vang trời lo cho chàng. Vì nếu mũi
tên trúng đít ngựa, ngựa sẽ hất chàng xuống đất, như vậy là thua. Cao
Cảnh-Kiệt phi ngựa giữa tiếng reo hò. Chàng nghe tên từ phía sau, vội
chống hai tay lên lưng ngựa, còn hai chân lộn ngược về sau, mũi tên vừa
tới mông ngựa, chân chàng gạt ngang, hất bay mũi tên lên không, rồi uốn
cong người lên cao ngồi vào lưng ngựa như thường. Quân sĩ hai bên reo hò vang dội. Ngụy Đảng thấy mình mất hai mũi tên biết nguy hiểm, dừng lại
không đuổi nữa, Cao Cảnh-Kiệt cũng gò ngựa lại.
Ngụy Đảng nói:
– Ngươi không dám đấu cùng ta, cứ chạy đâu phải anh hùng.
Cao Cảnh-Kiệt đáp:
– Được bây giờ ta không tránh né, nếu ta tránh né hay phi ngựa hoặc gạt đỡ coi như thua cuộc.
Tướng sĩ hai bên cùng giật mình lo nghĩ cho Kiệt, vì tài bắn của Ngụy
Đảng tuyệt cao, chàng không tránh né hoặc đỡ gạt, chỉ có chết mà thôi.
Quân sĩ hai bên cùng im lặng, giữa trận tiền, mỗi bên hàng mấy vạn người mà như một đêm vắng vậy.
Ngụy Đảng nói lớn:
– Ta bắn vào giữa ngực ngươi đây.
Y buông tên, mũi tên xé gió bay tới. Kiệt cũng nạp tên bắn lại. Hai mũi
tên đến giữa đường gặp nhau tóe lửa rồi cùng rơi xuống đất. Nhưng Cao
Cảnh-Kiệt buông một lúc hai mũi, một bắn trúng tên Đảng, một bay vào
giữa mặt y.
Ngụy hoảng hốt lấy cung gạt mũi tên, nhưng y gạt vào khoảng không. Vì
tên của Kiệt tới trước mặt Đảng vài thước thì rơi xuống đất. Ngụy Đảng
lấy cung móc một cái, mũi tên bay lên cao, y cầm lên coi, thì ra tên đã
được bẻ mũi. Bây giờ y mới hiểu đối phương tha cho mình, chỉ muốn biểu
lộ bản lĩnh mà thôi.
Ngụy Đảng còn đang ngơ ngác, thì Cao Cảnh-Kiệt nói lớn:
– Ta bắn gãy cung ngươi đây.
Chàng buông tên. Tên xé gió bay tới, ba mũi một lúc. Ngụy Đảng đang
luống cuống, thì chát một cái, cung của y bị gãy. Phía sau cây cờ hiệu
của Thục bị trúng tên, cũng gãy gục xuống. Ngụy Đảng toát mồ hôi, y biết Cao Cảnh-Kiệt không muốn giết mình, cũng không muốn giết tướng bên
mình. Kiệt bắn ba mũi tên, chỉ đánh gãy cung, đánh gãy cây cờ, hiển
dương tiễn pháp Âu-lạc.
Y biết mình kém đối thủ xa, y nghiêng mình:
– Tiểu tướng chịu thua anh hùng Lĩnh-Nam.
Cao Cảnh-Kiệt nghiêng mình đáp lễ:
– Nghĩa sĩ Việt đất Lĩnh-Nam chỉ cần phân thắng bại, chứ không bao giờ
giết người đã thua mình. Ngụy tướng-quân, người có giữ lời hứa với ta
rằng, nếu ngươi thua sẽ đầu hàng không?.
Ngụy Đảng đến trước ngựa của Công-tôn Tư, dập đầu lạy bốn lạy:
– Thái-tử, sư huynh, Thái-tử không phân biệt trên dưới, dùng tình nghĩa
huynh đệ đãi tôi. Đáng lẽ suốt đời tôi phải theo Thái-tử để đền ơn tri
ngộ. Nhưng nay tài hèn sức mọn, phải thua người, vậy xin Thái-tử nhận
bốn lạy của tôi, coi như lễ tiễn biệt. Tôi là nghĩa sĩ đất Thục, thà
chịu chết chứ không đần hàng Quang-Vũ. Vì vậy tôi xin lấy cái chết để
đền ơn tri ngộ.
Nói rồi Ngụy Đảng cầm kiếm đưa lên cổ tự vẫn. Mọi người đồng kêu rú lên. Công-tôn Tư muốn cản mà không kịp chỉ còn biết thét:
– Ngừng tay!
Nhưng không kịp nữa. Bỗng có vật gì mầu xanh to bằng nắm tay, từ bên
trận Hán bay hướng vào cổ tay Ngụy Đảng, vật đó bay nhanh quá không ai
biết đó là vật gì, khi bay phát ra những tiếng vo vo nhức tai.
??????
Cao Cảnh-Kiệt phi ngựa sang trận Thục. Chàng hiên ngang xuống ngựa đỡ Ngụy Đảng dậy:
– Ngụy tướng quân, người là nghĩa sĩ thì nhiều, nghĩa sĩ thực hiếm.
Tướng quân khỏi cần đầu hàng nữa. Chúng ta đấu tên rồi kết bạn, không
biết có nên chăng?
– Ngụy Đảng này được kết thân với một anh hùng Lĩnh-Nam thực cầu mà không được.
Hai người cùng quì gối giữa trận, thề rằng:
– Chúng tôi Ngụy Đảng thuộc phái Thiên-sơn đất Thục và Cao Cảnh-Kiệt
thuộc phái Hoa-lư đất Lĩnh-Nam, dùng nghĩa kết huynh đệ thề suốt đời lấy nghĩa đối xử với nhau. Nếu sai lời trời tru đất diệt.
Hai người quay lưng lại lạy nhau. Ngụy Đảng 45 tuổi làm anh, Cao
Cảnh-Kiệt 22 tuổi làm em. Sau khi kết nghĩa, hai người nắm tay nhau ra
một tảng đá dưới gốc cây, cách xa trận tuyến ngồi nói chuyện. Họ chỉ còn biết tình huynh đệ, tình người, tạm quên đi những gì là Hán, là Thục,
là Lĩnh-Nam.
Công-tôn Tư thấy Ngụy Đảng được một người bên Hán quăng ám khí cứu thoát chết thì mừng lắm. Ngụy lại kết bạn với một hào kiệt Lĩnh-Nam thì mừng
lắm, y hướng vào trận Hán:
– Không biết cao nhân nào phóng ám khí cứu Ngụy huynh, Tiểu-vương xin đa tạ.
Nguyên trái chanh đó do Khất đại-phu phóng ra cứu người. Ngài là một đại danh y đi đâu cũng mang theo nhuều trái cây làm thuốc. Thấy Ngụy Đảng
khẳng khái tự vận, ngài không nỡ nhìn người nghĩa sĩ chết uổng nên mới
ném trái chanh ra.
Công-tôn Tư chắp tay về phía Hán quân lạy đủ ba lạy.
Quỳnh-Hoa thấy Cao Cảnh-Kiệt chiến thắng anh hùng, tính bồng bột trẻ con nổi dậy, nàng vọt ngựa ra giữa hàng quân hai bên hỏi:
– Tiểu nữ là Trần Quỳnh-Hoa, người Việt đất Lĩnh-Nam xin được tiếp mấy chiêu cao siêu của anh hùng đất Thục.
Bên Thục đã có Điền Nhung, Hầu Đơn nếm mùi chưởng lực của nàng và
Quỳnh-Hoa. Họ kể cho các bạn nghe, có người tin, có người không tin.
Trấn-tây tướng-quân Thục là Sử Hùng, từ lâu không tin rằng một cô nhỏ
tuổi, ẻo lã, xinh đẹp thế kia mà lại có chưởng lực mạnh như thế, y phi
ngựa ra nói:
– Tôi là Sử Hùng. Trấn-tây tướng-quân xin được lĩnh-giáo mấy thế võ cao siêu của anh hùng Lĩnh-Nam.
Y nhảy xuống ngựa khoanh tay đứng chờ. Quỳnh-Hoa từ trên mình ngựa vọt
người lên cao, đánh một thế Lưỡng ngưu tranh phong trong Phục-ngưu thần
chưởng. Chân đá gió một cái, người nàng tà tà đáp xuống trước mặt Sử
Hùng, thân pháp đẹp vô cùng. Sử Hùng thấy thế chưởng kỳ diệu không dám
coi thường, y khoanh tay một vòng, đánh trở lên một chưởng. Hai chưởng
gặp nhau, Quỳnh-Hoa bị bay vọt lên cao. Ở trên không nàng lộn đi hai
vòng rồi tà tà đáp xuống đất.
Vừa tới đất, nàng vung chưởng đánh liền. Sử Hùng vung chưởng đỡ. Hai
chưởng chạm nhau, bùng một tiếng, cả hai cùng bật lui trở lại. Qua hai
chưởng đầu Sử Hùng biết công lực đối phương không kém mình là bao. Y vận công lực phát ra tột đỉnh tấn công liên tiếp hơn mười chưởng liền.
– Chúng ta là đạo quân đầu tiên tiến vào Thành-đô. Vậy tướng sĩ phải
nghiêm cấm quân sĩ không được cướp của dân, không được phạm đến tù binh, hàng binh, không được đốt phá cung thất Thục-đế. Nếu tướng sĩ phạm thì
cấp Lữ trưởng trở xuống bị xử trảm.
Chàng ra lệnh :
– Sư bá Triệu Anh-Vũ, Đinh Công-Thắng tiến quân theo hai đường, một
chiếm Long-xương, rồi theo đường thủy vào uy hiếp Thành-đô. Một theo
đường Đông-sơn đến Mi-sơn. Đạo này có hiền đệ Vương Lộc làm tiên phon g
dẫn đường. Hiền đệ nhớ một điều: Thù nhà sau nợ nước, nếu người dòng họ
Công-tôn đầu hàng thì không được giết.
Ngừng một lát chàng tiếp:
– Hiền-đệ Vương Thọ cùng sư muội Đinh Bạch-Nương, sư đệ Hiển-Hiệu và
Quách Lãng đánh Hán-nguyên. Còn sư bá Nam-hải, sư thúc Đinh Đại, sư thúc Vương Nguyên, sư tỷ Thiều-Hoa, sư muội Vương Sa-Giang đánh thẳng vào
Thành-đô.
Đinh Bạch-Nương hỏi:
– Trong bọn chúng tôi, ai là chúa tướng?
Đào Kỳ buồn cười về cô em bà Chằng, nói:
– Sư-đệ Hiển-Hiệu là Hổ-nha đại tướng quân dĩ nhiên sư đệ làm chúa tướng.
Vương Thọ hỏi:
– Đánh Hán-nguyên xong chúng tôi sẽ làm gì?
Đào Kỳ khen:
– Hiền đệ quả là người cầm quân kinh nghiệm. Sau khi hạ xong Hán-nguyên, hiền-đệ cho đối xử với tù binh, hàng binh như chúng ta đã làm. Hiền-đệ
cử một tướng cũ của hiền-đệ trấn thủ. Hiền-đệ tức tốc mang quân đến trấn ở Tiểu-kim bắt Công-tôn Thuật. Vì có thể y sẽ chạy vô khu rừng núi này
ẩn thân.
Hiển-Hiệu lĩnh mệnh, mời các tướng trẻ ra ngoài bàn định kế sách.
Đào Kỳ tiếp:
– Sư bá Nam-hải mang ba vạn quân tiến theo đường phía Nam đánh vào
Thành-đô. Thế nào sư bá cũng vào thành trước. Xin sư bá chỉ huy việc
tiếp thu thành trì, bảo quản kho tàng. Sư thúc Đinh Đại kinh nghiệm
chiến đấu nhiều, xin lãnh ba vạn quân đánh vào cửa Bắc Thành-đô. Sư tỷ
Trưng Trắc lĩnh một vạn quân đánh vào cửa Đông. Sở dĩ sư tỷ lĩnh ít
quân, vì phía sau sẽ có đạo quân của sư bá Đinh Công-Thắng, Thiệu Anh-Vũ tiến lên, tổng số sẽ tới năm vạn là ít. Sư tỷ Thiều-Hoa đánh cửa Tây,
chỉ cần phục quân ở ngoài thành, đợi cho giặc chạy qua một nửa thì đổ
quân ra, cắt làm đôi mà bắt giặc. Số còn lại giặc chạy về Tiểu-kim, đã
có Hiển-Hiệu bắt chúng. Thôi mời quý vị điểm quân, ngày mai giờ Dần sẽ
xuất phát.
Vương Nguyên nước mắt đầm đìa hỏi:
– Đào nguyên soái, cha con tôi với Công-tôn Khôi thù sâu như biển. Tại sao nguyên soái không cho cha con tôi xuất lực?
Đào Kỳ ghé tai Vương Nguyên nói nhỏ:
– Vương sư thúc, sư muội và cháu sẽ đột nhập Thành-đô bắt giặc trước tất cả. Nhưng phải giữ bí mật hết sức mới được.
Vương Nguyên cả mừng chắp tay lạy Đào Kỳ. Đào Kỳ vội đỡ dậy. Hai người ra chỗ vắng bàn việc đột nhập Thành-đô.
Vương Nguyên móc trong túi ra tấm bản đồ:
– Đây là bản đồ Thành-đô, tôi ghi rất kỹ. Đào nguyên soái hãy coi.
Đào Kỳ thấy bản đồ ghi chi tiết từng chỗ đóng quân trong thành, sông,
núi kinh, lạch, cùng các cung điện, không chỗ nào mà không có. Chàng
ngạc nhiên hỏi:
– Tại sao sư thúc có bản đồ nầy?
Vương Nguyên đáp:
– Nguyên hai cha con tôi hóa trang, đổi hình làm nghề ca hát khắp Thành-đô, biết rõ mọi đường lối trong thành.
Đào Kỳ cho lấy thẻ bài cũ của Việt-tây để ba người dùng, rồi bí mật lên đường vào Thành-đô.
Vương Sa-Giang bàn:
– Bây giờ chúng ta phải giả dạng mới được. Cha làm nhạc công, con làm ca nhi còn Đào đại-ca làm gì bây giờ?
– Thành-đô ai cũng biết cha và con cả rồi, bây giờ Đào đại-ca nói tiếng
Thành-đô không rõ thì dễ bị lộ lắm. Chi bằng cha tuyên bố con mới lấy
chồng, Đào đại-ca là chồng của con. Đào đại-ca đóng vai người câm.
Vương Nguyên là văn sĩ lãng mạn, coi chuyện đó thường tình. Nhưng Vương Sa-Giang ngượng quá:
– Đào đại-ca có vợ rồi, cha không biết hay sao mà bảo con là vợ đại-ca?
Vương Nguyên phì cười:
– Cha có bảo con là vợ đại-ca thực đâu. Hai người là vợ chồng giả thôi
mà. À! Được rồi, Đào đại-ca giả làm người câm, để cha muốn nói gì thì
nói. Đại-ca làm người mãi võ kiếm tiền, như vậy chúng ta đột nhập
Thành-đô dễ dàng hơn.
Vương Nguyên tính khoáng đạt, nghĩ sao nói vậy, nhưng Sa-Giang với Đào
Kỳ tự nhiên thấy ngượng ngùng. Ba người lấy một ít vàng bạc làm lộ phí,
rồi lên đường đến Thành-đô.
Chiều hôm đó ba người đến Nhã-an. Nhã-an là một quận gần Thành-đô, nằm
trên giao điểm của năm con sông, thuyền bè đi lại tấp nập, dân cư đông
đúc. Dù đất Thục đang loạn ly, mà hàng quán buôn bán vẫn sầm uất. Trai
thanh gái lịch đi lại vui vẻ. Quân lính đầy trong quận lỵ nhưng không
sách nhiễu dân chúng như quân Hán ở Giao-chỉ thường làm.
Vương Nguyên quen thuộc với trấn này, ông nói:
– Trấn có khoảng ba mươi ngàn nóc gia, nguồn thủy lợi như tôm cá không
biết bao nhiêu mà kể, lại là nơi nuôi nhiều súc vật, rất giàu có. Chúng
tôi qua lại ca hát nhiều lần, dân phố quen mặt chúng tôi. Đào huynh đệ
mới đến đây lần đầu, lại không nói được giọng Ích-châu, vì vậy chúng ta
tránh gặp gỡ nhiều người. Chúng ta tạm kiếm nhà quen nghỉ ngơi, rồi ngày mai lên đường, nhất thiết giấu kín hành tung, được bao nhiêu tốt bấy
nhiêu. Bây giờ chúng ta đến nhà Tạ viên ngoại, nghỉ ngơi ăn uống đã.
Ba người đi về phía bãi sông Thanh-y. Trên sông thuyền đậu san sát, cạnh sông, một khu vườn rộng, ngoài có hàng rào rất đẹp. Vương Nguyên giật
chuông. Một lát, có người lão bộc mở cổng. Lão bộc trông thấy Vương tỏ
vẻ sợ hãi, giật mình. Y chắp tay lắp bắp:
– Đại tiên sinh giá lâm, để tiểu nhân vào báo với trang chủ.
Nói rồi y chạy biến vào trong. Đào Kỳ hơi ngạc nhiên vì thân thủ y không phải tầm thường, mà tại sao lại đi làm nô bộc. Rồi nữa, khi y thấy
Vương thì sợ hãi, tại sao ?
Vương đối với dân chúng là ngươi hát dạo kiếm tiền, một nghề chỉ hơn ăn mày một chút thôi. Tuy vậy, chàng nghĩ :
– Có lẽ Vương là bạn của trang chủ, nên nô bộc trông thấy phải kính trọng là lẽ thường.
Tạ trang chủ quần áo chỉnh tề, chạy ra đón khách. Y chắp tay chào Vương Nguyên :
– Tiên sinh và cô nương giá lâm tệ trang, thật hân hạnh cho chúng tôi. A... còn vị thiếu niên nầy là ai ?
Vương Nguyên chỉ Đào Kỳ :
– Y là con rể tôi. Tôi mới cho chúng cưới nhau mấy tháng trước. Y bị câm từ nhỏ, không biết nói nhưng nghe được, hiểu được và biết viết. Võ công y thuộc loại khá. Y theo chúng tôi đi mãi võ độ nhật.
Tạ viên ngoại mời khách vào trang. Qua hai lần cổng, đến một cái sân khá rộng, trong sân đầy cây kiểng, nào quất, nào thủy-tiên. Trong vườn đầy
đào và mai, trên cây đào đã lấm tấm mấy nụ hoa nở. Vào tới nhà chủ nhân
hỏi Vương Nguyên :
– Tiên sinh ở chơi mấy ngày, đợi qua Tết hãy về Thành-đô, để chúng tôi được thưởng thức khúc nhạc tiên trong ngày đầu xuân.
Vương Nguyên lắc đầu :
– Đa tạ viên ngoại, đợi khi khác. Chúng tôi có việc khẩn phải lên đường. Xin viên ngoại cho tá túc một đêm là đủ.
Tạ viên ngoại gọi người nhà dặn :
– Người nầy là hiền tế của Vương tiên sinh. Ngươi đưa họ ra căn phòng
ngoải thủy các. Vợ chồng trẻ, đêm xuân đáng giá ngàn vàng, họ phải ở
thủy các mới xứng đáng.
Người lão bộc đưa Đào Kỳ và Sa-Giang ra phía sau, quả nhiên có căn nhà
nội lên giữa cái hồ. Từ bờ ra thủy các phải qua một cái cầu. Hai người
qua cầu rồi, lão bộc cầm một bánh xe trên bờ quay tròn, bánh xe cuốn
dây, cây cầu cất lên. Thế là Đào Kỳ với Sa-Giang cô lập trên thủy các.
Hai người mở cửa căn thủy các vào trong, có một phòng ngủ, giường nệm
rất dầy, có đủ chăn, màn sạch sẽ. Trên vách treo mấy thanh kiếm. Như vậy chứng to ûchủ nhân là người văn võ toàn tài.
Sa-Giang than :
– Họ tưởng đại-ca với tiểu muội là vợ chồng thực, nên cho ở với nhau
trong thủy các này. Thủy các có một cái giường, tối ngủ làm sao đây?
Chúng mình đâu phải vợ chồng!
Đào Kỳ nghĩ:
– Tại sao họ đưa mình vào thủy các rồi kéo cầu lên? Họ định giam mình ở đây hay sao?
Trong đầu chàng chợt nhớ lại ngày nào ở Thái-hà trang, Lê Đạo-Sinh cũng
xếp đặt cho chàng với Tường-Quy cùng xuống du thuyền, rồi tình yêu nảy
sinh, tạo thành một thiên trường hận. Giờ nầy Tường-Quy đã ra người
thiên cổ, chàng vẫn không quên được.
Sa-Giang nhìn chàng hỏi:
– Đào đại-ca, có phải đại-ca nhớ nhung sư tỷ Phương-Dung không?
Đào Kỳ lắc đầu:
– Tôi đang nghĩ chuyện khác.
– Chuyện khác! Đại-ca nói dối em rồi. Nếu đại-ca nghĩ chuyện khác thì
khuôn mặt không tỏ ra những nét nhu mì, yêu thương như vậy. Nét mặt đó
chỉ có khi người ta nghĩ đến người mình yêu mà thôi.
Đào Kỳ nhìn Sa-Giang, chàng thấy nét mặt cô nhu mì, ôn nhu, tươi như hoa xuân. Chàng vội quay đi để tư tưởng không bị cuốn vào vòng tội lỗi.
Sa-Giang hỏi:
– Đại-ca! Đại-ca thấy em với chị Phương-Dung ai đẹp hơn?
Đào Kỳ không ngờ Sa-Giang hỏi câu đó. Chàng suy nghĩ rồi đáp:
– Bàn về thông minh, lanh lợi, trên thế gian không có người thứ hai bằng Phương-Dung. Bàn về vẻ đẹp thì nàng có vẻ đẹp uy nghiêm như những đóa
hoa Huệ, hoa Thủy-tiên. Còn cô thì vẻ đẹp như hoa Đào, hoa Mận mùa xuân. Khi cô vừa hát, vừa đàn thì có sức hấp dẫn, thu hút người ta hơn cả
sư-tỷ Hoàng Thiều-Hoa.
Sa-Giang hỏi tiếp:
– Em nói tỷ dụ thôi nghe. Tỷ dụ như anh mới quen chị Phương-Dung với em
cùng một lúc, anh không bị phân chia về người Việt, người Hán, không bị
dư luận, cha mẹ can thiệp, anh sẽ chọn ai ?
Đào Kỳ chết lặng, không ngờ nàng hỏi câu đó. Sa-Giang so với Phương-Dung võ công không bằng, văn học thua xa, kiến thức kém cỏi, gia thế càng
kém, nhưng đối với chàng dường như nàng có một cái gì giống Tường-Quy,
chàng dễ bị rung động. Hai người đã bị ước hẹn giả vợ chồng, rồi lại bị
đưa ra nhà thủy các vắng vẻ thế này rồi nàng lại hỏi câu đó nữa, làm Đào Kỳ hoảng sợ. Chàng chạy ra ngoài sân nhìn tuyết lất phất rơi. Rõ ràng
là chàng chạy trốn.
Một lát chàng thấy có một hơi thở thơm tho bên cổ trái, rồi một bàn tay
mềm mại nắm lấy tay chàng. Chàng muốn gỡ ra mà người như bị tê liệt,
không sao cử động được, Sa-Giang dựa vào người chàng. Chàng thấy ấm áp
dễ chịu, đưa tay ra quàng lấy nàng. Hai người đứng như vậy lâu lắm, mãi
cho đến khi có tiếng người lão bộc nói bên kia cầu :
– Cô nương, tiểu nhân đưa cơm vào cho cô nương và lang quân xơi.
Đào Kỳ hoảng hốt buông Sa-Giang ra, hai người vào thủy các ăn cơm. Suốt bữa ăn, hai người không nói với nhau câu nào.
Trời bắt đầu tối, Sa-Giang lấy lửa đốt lên cây đèn để ở án thư. Nàng lấy đàn ra dạo, tiếng đàn rung động không gian, truyền ra ngoài hồ. Bên
ngoài tuyết xuống, mọi vật trắng xóa. Sa-Giang ru hồn vào tiếng đàn, cất giọng hát :
Tĩnh nữ kỳ thù,
Sĩ ngã ư thành ngung.
Ái nhi bất kiến,
Tao thủ trì trù.
(Có người con gái nhu mì, đợi ta ở góc thành. Ta yêu nàng mà không gặp, vò đầu, vò tóc rối bời).
Đào Kỳ biết nàng lấy bài hát này trong Kinh thi, phổ vào nhạc. Dưới ánh
đèn huyền ảo, chàng thấy Sa-Giang đẹp vô cùng, giống như Tường-Quy trước đây. Chàng nhắm mắt lại để tưởng tượng ra hình ảnh Phương-Dung, nhưng
Phương-Dung vẫn không thấy, mà chỉ thấy đôi vai gầy, đôi mắt ướt, hai
bàn tay trắng nhỏ của Sa-Giang. Chàng nhủ thầm:
– Ta là con trai của Đào-hầu nổi danh đạo đức Lĩnh-Nam. Ta không thể đi
đến đâu để tình ái đến đó được. Phương-Dung là vợ ta, nàng thông minh,
võ công tuyệt vời, mưu trí không ai bì kịp. Nàng đẹp như tiên nga, giờ
này đang nhớ nhung ta.
Nhưng chàng lại thấy hình ảnh của người đàn ông lấy nhiều vợ. Chàng
thường thấy những danh nhân, đi đâu gặp dịp là nghe con hát, vui với kỹ
nữ là điều thường tình, không có tội gì cả. Bất quá lấy thêm Sa-Giang
làm vợ nữa là cùng, có gì trắc trở đâu?
Sa-Giang ngưng đánh đàn, nàng đến ngồi cạnh Đào Kỳ, ngước mắt nhìn chàng hỏi;
– Đại-ca chưa trả lời câu hỏi của em ban nãy.
Đào Kỳ thở dài:
– Vương cô nương, tôi là người đất Lĩnh-Nam, đã có vợ rồi. Vợ tôi là
Phương-Dung, do cha mẹ cưới cho. Chúng tôi thương nhau từ nhỏ tới giờ.
Tôi biết cô nương đối với tôi một mối nhu tình, nhưng tôi không làm gì
để đền đáp cô nương được cả.
Sa-Giang dựa đầu vào vai Đào Kỳ. Chàng ngồi im, không dám đẩy nàng ra.
Cứ như vây lâu lắm, thì chàng khám phá ra Sa-Giang đã ngủ rồi. Chàng khẽ bồng nàng lên đặt vào giường, đắp chăn cho nàng ngủ. Còn chàng thì ngồi trên ghế dưỡng thần.
Chàng ngủ thiếp đi lúc nào không hay. Chập chờn cho đến sáng hôm sau.
Vương Nguyên gọi hai người. Đào Kỳ giật mình tỉnh giấc trước. Chàng chạy ra mời lão vào trong thủy các. Vương Nguyên nói:
– Chúng ta chuẩn bị vào Thành-đô hôm nay. Trời tuy có tuyết nhưng đường không trơn mấy. Ngựa đi lại chắc không sợ gì.