Emily Trên Dải Cầu Vồng
Chương 21 : Một giọt máu đào hơn ao nước lã
Ngày đăng: 16:05 19/04/20
Mãi tới gần sáng Emily mới chợp mắt được. Bão đã tan và cảnh vật quanh nhà cũ của ông John toát lên vẻ ma mị dưới ánh trăng đang lặn khi cuối cùng cô cũng trôi vào giấc ngủ, mang theo niềm vui vì đã hoàn thành công việc; vì cô đã nghĩ xong về câu chuyện của mình. Giờ thì chẳng còn phải làm gì nữa, chỉ cần ghi lại cốt truyện vào cuốn sổ Jimmy thôi. Cô sẽ không cảm thấy an ổn chừng nào còn chưa viết được chúng ra giấy trắng mực đen. Cô sẽ không tìm cách viết truyện này ngay bây giờ; ồ, sẽ không viết cho tới nhiều năm nữa. Cô sẽ phải đợi cho tới khi thời gian và kinh nghiệm biến ngòi bút của cô thành công cụ có khả năng mang sự công bằng đến cho nhận thức của cô - bởi vì theo đuổi ý tưởng suốt cả một đêm xuất thần là điều quan trọng, nhưng cũng quan trọng không kém là ghi lại ý tưởng đó ra giấy theo một bút pháp sẽ tái tạo được một phần mười sức quyến rũ và ý nghĩa ban đầu của nó.
Emily bị đánh thức bởi Ilse, lúc này đang ngồi bên mé giường, trông nhợt nhạt và tiều tụy, nhưng đôi mắt màu hổ phách lại tràn ngập niềm vui không thể chế ngự.
“Chà, ngủ một giấc xong là tớ rũ sạch cơn trác táng rồi, Emily Starr ạ. Và sáng nay dạ dày tớ ổn định. Món rượu whisky của ông Malcolm đã làm nó yên ổn rồi; dẫu rằng theo ý tớ thì ba phần khổ vì bệnh còn bảy phần khổ vì phương thuốc ấy đấy. Có lẽ cậu vẫn băn khoăn không hiểu tại sao tối qua tớ chẳng chuyện trò gì.”
“Tớ nghĩ cậu say quá rồi chẳng trò chuyện gì được,” Emily thẳng thắn nói.
Ilse cười khúc khích.
“Có mà tớ say quá rồi nên không thể không nói ấy chứ. Lúc đến chỗ sofa, tớ đã qua cơn choáng váng rồi và tớ muốn nói, Emily ạ; chao ôi, tớ muốn nói! Và tớ muốn nói những chuyện ngu ngốc nhất, kể ra hết những điều tớ biết hay suy nghĩ. Chỉ có điều, tớ vẫn còn đủ lý trí để biết rõ rằng tớ không được phép nói những chuyện đó, nếu không tớ sẽ vĩnh viễn biến mình thành con ngốc; và tớ cảm thấy nếu tớ nói dù chỉ một lời thì nó cũng sẽ chẳng khác nào vừa tháo nút chai; tất cả sẽ tuôn ra tồng tộc. Vậy nên tớ khóa miệng lại, không nói năng gì. Tớ rùng cả mình khi nghĩ đến những chuyện mình có thể đã nói... và nói trước mặt Perry nữa chứ. Cậu sẽ không bao giờ còn bắt gặp Ilse bé bỏng chè chén lu bù nữa đâu. Từ hôm nay trở đi, tớ sẽ sửa mình.”
“Tớ chỉ không hiểu được,” Emily nói, “làm sao mà với cái gì cũng vậy, chỉ cần một lượng nhỏ xíu như thế cũng khiến đầu óc cậu đảo lộn hết cả lên.”
“Ôi chao, cậu biết mẹ tớ là một người nhà Mitchell rồi còn gì. Ai mà chẳng biết người nhà Mitchell chỉ cần nhấp một thìa rượu là đã ngã lăn cu chiêng ra rồi. Đó chính là một trong những trở ngại mang tính dòng họ đấy. Nào, tỉnh táo lên, tình yêu của tôi, người bạn thẳng thắn của tôi. Cánh con trai đang đốt lửa rồi, và Perry nói chúng ta có thể chế được một bữa ngon lành từ thịt lợn, đậu và bánh quy. Tớ đói ngấu đến nỗi có thể ăn sạch bách cả hộp đây này.”
Chính lúc Emily khua khoắng trong chạn tìm ít muối, cô đã có một khám phá vĩ đại. Ở tận trong góc ngăn chạn trên cùng, có một chồng sách cũ bụi bặm, hẳn là từ thời ông bà John và Almira Shaw - những sổ sách kế toán, niên giám, nhật ký mốc meo cũ rích. Emily lôi chồng sách xuống và khi nhặt lên xem, cô phát hiện ra trong đó có một cuốn sổ lưu bút cũ. Một tờ giấy xộc xệch long cả ra ngoài. Khi Emily đặt tờ giấy về chỗ cũ, đôi mắt cô rơi xuống tên bài thơ được dán lên trên. Cô cầm bài thơ lên, và lập tức hơi trở nên dồn dập hẳn. Huyền thoại Abegweit - bài thơ đã giúp Evelyn giành giải thưởng! Nó nằm đây, trong cuốn lưu bút ngả vàng cũ kỹ đã ít nhất hai mươi năm tuổi - chính xác đến từng từ, chỉ có điều Evelyn đã cắt bớt hai khổ để phù hợp với yêu cầu về độ dài.
“Mà lại là hai khổ thơ hay nhất chứ,” Emily khinh thường nghĩ. “Đúng kiểu Evelyn! Cô ta rõ ràng không có con mắt văn chương gì cả.”
Emily đặt lại đống sách vào trong kệ, nhưng cô tuồn trang giấy bị long khỏi sổ kia vào túi, và lơ đãng ăn phần bữa sáng được dành cho mình. Giờ thì cánh con trai đã bắt tay vào mở đường. Perry và Teddy tìm thấy một cái xẻng trong kho và chẳng mấy chốc đã khai thông được một lối dẫn ra đường cái. Cuối cùng, sau một cuốc xe dẫu chậm chạp nhưng yên ổn, nhóm bạn cũng về đến nhà và nhận thấy ở trang trại Trăng Non, mọi người vẫn bồn chồn lo lắng không biết số phận bốn cô cậu ra sao, và ai nấy đều có phần hốt hoảng khi được biết họ đã phải qua đêm trong ngôi nhà cũ của ông John.
“Cháu có khả năng bị cảm lạnh chết mất ấy chứ,” bà Elizabeth nghiêm nghị nói.
“Thì cũng có cách nào khác đâu ạ. Nếu không vậy thì sẽ bị chết cóng giữa trời tuyết mất,” Emily nói, và chẳng ai nói gì về vấn đề này nữa. Vì họ đã về nhà an toàn và chẳng ai cảm lạnh, còn cần phải nói gì khác nữa chứ? Đó chính là cách nhìn nhận vấn đề theo kiểu Trăng Non. Cách nhìn Shrewsbury thì có phần khác. Nhưng cách nhìn Shrewsbury không lộ rõ ngay lập tức. Đến tối thứ Hai, toàn bộ câu chuyện đã lan khắp Shrewsbury - Ilse kể lại nó ở trường và miêu tả trận say rượu của mình bằng thái độ hăm hở tột độ, giữa những tiếng cười đùa hú hét của bạn bè. Tối hôm đó, lần đầu tiên trong đời chủ động tìm gặp Evelyn Blake, Emily thấy Evelyn có vẻ khá hài lòng với chuyện này.
“Cậu không thể khiến Ilse ngừng kể câu chuyện đó đi được à, bạn thân mến?”
“Câu chuyện nào?”
“Sao chứ, chuyện say rượu tối thứ Sáu vừa rồi ấy - buổi tối cậu và cậu ta ở cùng Teddy Kent và Perry Miller trong cái ngôi nhà cũ trên Ao Thành Kiến đó đấy,” Evelyn nói nhẹ nhàng.
Emily bất chợt đỏ bừng cả mặt. Trong giọng Evelyn có cái gì đó - dường như cái thực tế trong sáng bỗng nhiên bị khoác lên sắc thái ý nghĩa đầy nham hiểm. Liệu có phải Evelyn đang chủ tâm tỏ ra xấc láo?
“Họ... họ vẫn đang nghĩ... và nói đủ mọi điều kinh khủng,” cô ngập ngừng. “Bác biết đấy... ở dưới Shrewsbury được chở che yên ổn này, người ta đâu có nhận ra một cơn bão sẽ như thế nào. Và, tất nhiên, mỗi người kể lại câu chuyện đều thêm mắm giặm muối một chút; đến lúc câu chuyện lan tràn khắp Shrewsbury thì tất cả bọn cháu đều say cả.”
“Điều khiến ta bực mình,” bà Ruth nói, “là các cháu lại đi rêu rao chuyện này khắp cả Shrewsbury. Vì lý do quái quỷ nào mà các cháu lại không chịu giữ kín mọi chuyện vậy hả?”
“Thế thì sẽ thành ranh mãnh mất,” con quỷ trong Emily đột nhiên nhảy vọt ra nói câu này. Giờ đây, khi câu chuyện đã được công khai, cô cảm thấy tinh thần phấn khởi đến độ suýt nữa đã cười phá lên.
“Ranh mãnh! Đó là sự khôn ngoan,” bà Ruth khịt mũi. “Nhưng, tất nhiên, Ilse làm sao giữ mồm giữ miệng được chứ. Ta nói mãi với cháu rồi, Emily, một người bạn ngu ngốc còn nguy hiểm gấp mười lần một kẻ thù. Nhưng cháu lo lắng đến chết dần chết mòn vì cái gì kia chứ? Lương tâm cháu trong sạch. Lời đồn thổi này rồi sẽ sớm chết thôi.”
“Hiệu trưởng Hardy nói cháu nên từ chức lớp trưởng,” Emily nói.
“Jim Hardy! Thế đấy, cha ông ta từng làm thuê cho ông nội ta suốt nhiều năm,” bà Ruth nói bằng giọng khinh bỉ tột cùng, “Jim Hardy lại tưởng rằng cháu gái ta sẽ cư xử không đúng đắn sao?”
Emily không hiểu ra làm sao nữa. Cô nghĩ ắt hẳn mình đang nằm mơ. Người phụ nữ khác thường này có phải bác Ruth không vậy? Đây không thể là bà Ruth được. Emily đang phải đương đầu với một trong những mâu thuẫn bản năng của nhân loại. Cô dần dần nhận thức được rằng ta có thể chống lại họ hàng ta, bất đồng ý kiến với họ, thậm chí căm ghét họ, nhưng giữa ta và họ vẫn luôn tồn tại một sợi dây liên kết. Bằng cách nào đó, các sợi gân của ta, các dây thần kinh của ta xoắn quýt cùng của họ. Bao giờ chẳng vậy, một giọt máu đào hơn ao nước lã. Cứ mặc kệ cho người ngoài công kích đi; thế thôi. Ít nhất bà Ruth cũng có một trong những đức tính của nhà Murray - trung thành với dòng họ.
“Đừng lo về Jim Hardy,” bà Ruth nói. “Ta sẽ nhanh chóng xử lý ông ta. Ta sẽ mở mắt cho mọi người thấy liệu mà giữ miệng lưỡi tránh xa nhà Murray ra.”
“Nhưng bà Tolliver đã yêu cầu cháu nhường cho họ hàng của bà ấy quầy hàng của cháu trong buổi bán hàng từ thiện,” Emily nói. “Bác biết như thế nghĩa là gì đấy.”
“Ta biết Polly Tolliver là môt kẻ giàu xổi ngu ngốc,” bà Ruth độp lại. “Từ hồi Nat Tolliver lấy nhân viên tốc ký của ông ta làm vợ, nhà thờ Thánh John chẳng còn như cũ nữa. Mười năm trước, bà ta còn là một cô nàng chân đất chạy quanh các ngõ hẻm của Charlottetown. Đến lũ mèo cũng chẳng cho bà ta vào trong. Giờ thì bà ta lại ra cái vẻ nữ hoàng và rắp tâm điều hành nhà thờ nữa. Ta sẽ nhanh chóng cắt hết móng vuốt của bà ta. Mấy tuần trước, bà ta còn lấy làm biết ơn vì có một người nhà Murray góp mặt trong gian hàng của bà ta. Đó là một thành tựu đối với bà ta.Polly Tolliver, đúng là không lẫn vào đâu được. Thế giới đang thành ra cái gì đây chứ?”
Bà Ruth oai vệ lên trên tầng, để mặc Emily hoang mang nhìn những phiền muộn đang dần biến mất. bà Ruth đã lại bước xuống, sẵn sàng cho cuộc chiến. Bà đã uốn tóc, đội chiếc mũ bon nê tốt nhất, mặc bộ váy lụa đen đẹp nhất và khoác chiếc áo choàng bằng da hải cẩu mới nhất. Với cách ăn vận như thế, bà rảo bước tới phố thượng, đến dinh thự Tolliver trên đồi. Bà lưu lại đó nửa tiếng đồng hồ, trò chuyện riêng cùng bà Nat Tolliver. Bà Ruth vốn thấp và đậm người, trông vô cùng tồi tàn và lạc hậu, bất chấp chiếc mũ bon nê mới và cái áo choàng da hải cẩu. Bà Nat ăn mặc rất thời thượng và trang nhã, với bộ váy từ Paris, chiếc kính cầm tay và mái tóc uốn xoăn xinh đẹp - thời đó, mốt uốn tóc xoăn vừa xuất hiện và bà Nat chính là người đầu tiên theo mốt này ở Shrewsbury. Nhưng chiến thắng trong cuộc đối đầu không rơi vào tay bà Tolliver. Không ai biết chính xác nội dung cuộc đối thoại trứ danh ấy. Chắc chắn bà Tolliver sẽ không bao giờ hé môi. Nhưng khi bà Ruth rời khỏi ngôi nhà rộng lớn ấy, bà Tolliver đang vò nhàu bộ váy Paris, còn mái tóc xoăn của bà bồng bềnh giữa đám đệm sofa trong lúc bà lau những giọt nước mắt uất hận và tủi hổ; còn bà Ruth cầm trong bao tay bức thư ngắn bà Tolliver gửi “Emily yêu quý”, cho biết người họ hàng của bà ta sẽ không nhận gian hàng tại hội chợ từ thiện và xin “Emily yêu quý” hãy làm ơn tiếp nhận quầy hàng như kế hoạch ban đầu. Tiến sĩ Hardy là đối tượng đối thoại tiếp theo, và một lần nữa bà Ruth lại ra về, như người ta nhìn thấy, trong tư thế chiến thắng. Cô hầu phục vụ trong nhà Hardy đã nghe thấy rồi sau đó kể lại cho mọi người một câu trong cuộc trao đổi đó, mặc dầu chẳng ai tin nổi bà Ruth từng nói như thế thật với tiến sĩ Hardy đeo kính oai nghiêm.
“Tôi biết ông vốn là thắng ngốc, Jim Hardy, nhưng vì Chúa, hãy giả vở tỏ ra ông không phải gã ngu năm phút thôi được không!”
Không, không đời nào có chuyện đó. Tất nhiên, chính cô hầu kia đã bịa chuyện.
“Cháu không còn gặp thêm nhiều rắc rối nữa đâu, Emily,” bà Ruth nói khi đã quay về nhà. “Polly và Jim đã no đủ rồi. Khi mọi người thấy cháu có mặt tại hội chợ từ thiện, họ sẽ nhanh chóng nhận ra gió đang thổi chiều nào để mà thuận thế giương buồm xoay theo chiều đó. Ta vẫn còn vài chuyện để nói với vài người trong thị trấn khi nào có cơ hội. Tình hình rồi sẽ thành gay go ra trò nếu các cô cậu đứng đắn không thể thoát khỏi nguy cơ chết cóng mà lại không bị người ta đơm đặt về chuyện đó. Đừng suy nghĩ về chuyện này nữa, Emily. Hãy nhớ là cháu luôn có gia đình hậu thuẫn.”
Lúc bà Ruth đã lên tầng, Emily bước đến bên tấm gương. Cô nghiêng tấm gương theo góc độ phù hợp và trao cho Emily - trong - gương nụ cười mỉm chậm rãi, quyến rũ và khiêu khích.
“Không biết mình cất cuốn sổ Jimmy ở đâu,” Emily nghĩ. “Mình phải bổ sung một vài đường nét cho bản phác thảo của mình về bác Ruth mới được.”