Emily Trên Dải Cầu Vồng

Chương 3 : Đêm thao thức

Ngày đăng: 16:05 19/04/20


Trong chúng ta, nhiều người vẫn còn nhớ như in thời điểm đích xác chúng ta tiến tới một cột mốc quan trọng nào đó trên đường đời... thời điểm diệu kỳ khi chúng ta tạm biệt thuở ấu thơ để bước vào quãng đời thiếu nữ; thời điểm lung linh huyền hoặc – hay có lẽ là choáng váng kinh hoàng – từ khi thiếu nữ bất chợt biến thành người phụ nữ trưởng thành; thời điểm ớn lạnh khi ta phải đối diện với cái thực tế rằng thời thanh xuân đã dứt khoát lùi lại đằng sau ta; thời điểm sầu bi, thanh thản khi ý thức được dòng chảy thời gian. Emily Starr không bao giờ quên được buổi tối cô trải qua cột mốc đầu tiên, và vĩnh viễn bỏ lại thời thơ ấu phía sau.



Mỗi trải nghiệm đều góp phần tô điểm cho cuộc sống thêm phong phú, và trải nghiệm càng sâu, sự phong phú mà nó mang lại càng lớn. Buổi tối kinh hoàng, bí ẩn và rạo rực một cách kỳ lạ đó đã trao cho cả trí óc lẫn trái tim cô một sự trưởng thành như đã được đúc kết qua hàng bao nhiêu năm.



Đó là một đêm đầu tháng Bảy. Cả ngày trời nóng hầm hập. Bà Elizabeth bị thời tiết này làm cho bức bối đến độ quyết định sẽ không tham dự buổi cầu nguyện tập thể. Bà Laura, ông Jimmy và Emily vẫn đi. Trước khi rời nhà, Emily đã hỏi xin bà Elizabeth và được cho phép về nhà cùng Ilse Burnley sau buổi lễ, thậm chí còn được ở lại qua đêm. Đây đúng là một niềm vui sướng hiếm hoi. Bà Elizabeth không mấy khi đồng ý chuyện vắng nhà qua đêm.



Nhưng bác sĩ Burnley đang phải đi xa, còn người quản gia tạm thời phải nghỉ việc vì rạn mắt cá chân. Ilse đã rủ Emily tối đó đến ở cùng, và Emily được phép làm vậy. Ilse không biết chuyện này – thật ra, cô chẳng mấy hy vọng lời đề nghị được chấp thuận – nhưng rồi sẽ được thông báo tại buổi cầu nguyện tập thể. Giá Ilse không đến muộn thì Emily đã nói cho cô biết chuyện trước khi buổi cầu nguyện “tiến hành” rồi, và như vậy rất có thể sẽ tránh được những sự cố không may trong tối đó; nhưng, như thường lệ, Ilse đã đến muộn, thành ra cái sảy nảy cái ung.



Emily ngồi trên hàng ghế cầu nguyện của nhà thờ Murray, ngay sát đầu giáo đường, cạnh khung cửa sổ trổ ra vạt linh sam và cây thích bao quanh ngôi nhà thờ nhỏ màu trắng. Buổi cầu nguyện tập thể này không phải buổi tụ họp định kỳ hằng tuần vốn chỉ lác đác vài con chiên ngoan đạo như thường lệ. Nó là một “buổi họp mặt đặc biệt”, được tổ chức để chuẩn bị cho ngày Chủ nhật cộng đồng sắp tới, và diễn giả không phải là cha Johnson trẻ trung tràn đầy nhiệt huyết luôn khiến Emily háo hức lắng nghe bất chấp sai sót ngớ ngẩn của cô ở bữa tối của Hội Phụ nữ Cứu trợ hôm vừa rồi, mà là một nhà truyền giáo được Shrewsbury cho mượn một tối. Nhờ danh tiếng của ông ta mà nhà thờ đông nghịt người, ấy vậy nhưng sau đó hầu như ai cũng tuyên bố thà nghe cha Johnson của họ giảng còn hơn. Emily nhìn ông ta chăm chú, đầy xét đoán và rút ra kết luận ông ta ăn nói quá ngọt xớt và chẳng ra dáng con người cao quý gì hết. Cô nghe ông ta đọc từ đầu đến cuối một bài kinh, thầm nghĩ,



“Đưa ra lời khuyên sáng suốt của Chúa và lăng mạ quỷ thì đâu phải cầu nguyện chứ.”



Sau khi lắng nghe diễn thuyết vài phút, cô rút ra kết luận ông ta chỉ là một kẻ tư duy phi lý, thích bày trò giật gân và khoái gây chuyện lùm xùm, vậy là cô dửng dưng phớt lờ ông ta để thả mình vào cõi mơ –một chuyện nhìn chung cô có thể làm tùy ý mỗi khi trong lòng bất an muốn trốn thoát hiện thực trái ngang.



Ngoài trời, ánh trăng vẫn đang được sàng qua những tán thích và linh sam, lắc rắc đổ xuống cơn mưa bạc, mặc dù một đụn mây đầy đe dọa đang đùn lên đặc dần phía chân trời Tây Bắc, và tiếng sấm ầm ì văng vẳng phá tan bầu không khí tĩnh lặng giữa đêm hè oi ả, một đêm hầu như tịnh không chút gió, dù thỉnh thoảng bất chợt một luồng khí quẹt ngang đám cây cối, nghe giống tiếng thở dài hơn là một cơn gió nhẹ, và xô bóng cây túm tụm thành những hình thù kỳ dị đang nhảy múa. Vẻ đẹp thanh bình quen thuộc hòa quyện cùng những dấu hiệu báo bão đang về nhuộm bầu không khí ban đêm bằng một sắc màu kỳ lạ khiến Emily mê mẩn, và cô tận dụng hẳn phân nửa thời gian diễn thuyết của nhà truyền giáo để soạn thảo trong tâm trí bản thân miêu tả về cảnh tượng này dành cho cuốn sổ của Jimmy. Thời gian còn lại, cô nghiên cứu từng người một trong số các thính giả lọt vào tầm nhìn. Trong các cuộc hội họp giữa chốn công cộng, Emily chẳng bao giờ chán trò này, và càng lớn cô càng thích hơn. Thú vị xiết bao khi nghiên cứu những khuôn mặt mỗi người một vẻ ấy, khi ngẫm ngợi dò đoán vô vàn câu chuyện cuộc đời được viết trên đó bằng nét chữ tượng hình bí ẩn thời Ai Cập cổ đại. Hết thảy những người đàn ông đàn bà đó, ai cũng có những nỗi niềm thầm kín, những cuộc đời bí mật không tỏ cùng bất kỳ ai ngoài chính bản thân và Chúa. Người ngoài chỉ có thể suy đoán về họ, và Emily rất say mê trò chơi suy đoán này. Quả thực, nhiều khi, cô còn cảm thấy dường như mọi thứ không chỉ dừng lại ở mức suy đoán, dường như trong một vài khoảnh khắc đặc biệt nào đó, cô có thể bước vào tâm hồn họ, có thể đọc được trong đó những động cơ, những đam mê vốn vị đào sâu chôn chặt mà có lẽ vẫn là một bí ẩn ngay cả với những người sở hữu chúng. Bao giờ cũng vậy, chỉ cần cái khả năng ấy trỗi dậy là Emily lại khó lòng cưỡng nổi khao khát được làm điều này, dẫu rằng ngay cả khi đã đành lòng nhượng bộ, cô vẫn không bao giờ thoát khỏi cảm giác áy náy, cho rằng mình đang xâm phạm vào đời tư của kẻ khác. Chuyện này khác hẳn với việc sải rộng đôi cánh tưởng tượng bay vào một thế giới sáng tạo trong tâm tưởng, khác hẳn với vẻ đẹp tinh tế, huyền ảo của “ánh chớp”; ở cả hai trường hợp đó, cô không có bất kỳ giây phút lưỡng lự hay ngần ngại nào. Nhưng khi rón rén bước xuyên qua một cánh cửa đang tạm thời mở khóa như thế, rồi thoáng nhìn thấy những thứ vốn không được bày tỏ, không thể bày tỏ đang được che đậy trong sâu thẳm trái tim và tâm hồn người khác, hành động đó, bên cạnh ý thức về sức mạnh của nó, luôn mang đến một nhận thức về sự cấm đoạn, thậm chí là ý thức về sự báng bổ thánh thần. Tuy nhiên, Emily không biết liệu có khi nào cô cưỡng lại nổi sức quyến rũ của nó không... lần nào cũng như lần nào, cô luôn liếc qua cánh cửa và nhìn hết thứ này đến thứ kia, rồi tới lúc đó mới nhận thức được mình đang làm gì. Hầu như chúng luôn là những điều khủng khiếp. Bí mật thường khủng khiếp. Những thứ đẹp đẽ chẳng mấy khi bị che giấu làm gì... chỉ những thứ xấu xa, méo mó mới hay bị thế.



“Vào thời xa xưa, Elder Forsyth chắc hẳn là kẻ ưa hành hạ người khác,” cô nghĩ. “Nhìn mặt ông ta giống thế lắm. Ngay lúc này đây, ông ta đang thích nhà truyền giáo vì ông ấy đang giảng về địa ngục, và Elder Forsyth chắc mẩm mọi kẻ thù của ông ta đều xuống đó hết. Đúng vậy, thế nên ông ta mới lộ vẻ mãn nguyện như thế. Mình nghĩ hằng đêm, bà Bowes vẫn cưỡi chổi bay lượn trên trời. Bà ta có vẻ thế lắm. Bốn trăm năm trước, bà ta hẳn phải là phù thủy, và Elder Forsyth đã đóng cọc thiêu cháy bà ta. Bà ta căm ghét hết thảy mọi người... hẳn phải kinh khủng lắm khi căm ghét tất cả mọi người, khi để tâm hồn tràn ngập hận thù. Chắc chắn mình phải tìm cách miêu tả một người như thế trong cuốn sổ Jimmy. Không biết liệu hận thù căm ghét có xua đuổi toàn bộ tình yêu thương ra khỏi tâm hồn bà ta không, không biết trong đó còn rơi rớt lại chút yêu thương nào dành cho bất kỳ ai hay bất kỳ thứ gì không. Nếu có thì rất có thể nó sẽ cứu vớt bà ta. Đây đúng là một ý tưởng hay để viết truyện. Trước khi đi ngủ mình phải ghi lại mới được, mình sẽ mượn Ilse ít giấy vậy. Không cần... cuốn sách thánh ca của mình vẫn còn sót ít giấy trắng. Mình sẽ viết lại luôn.



“Không biết tất cả những người này sẽ nói gì nếu đột nhiên được hỏi họ mong muốn gì nhất, và bắt buộc phải trả lời thành thật nhỉ. Không biết trong số những cặp vợ chồng kia, có bao nhiêu người mong muốn được thay đổi nhỉ? Vợ chồng Chris Farrar chắc là có... chuyện đó ai mà chẳng biết. Chẳng hiểu tại sao, mình cứ cảm thấy chắc chắn James Beatty và vợ ông ta cũng thế. Họ có vẻ khá hài lòng về nhau, nhưng có một lần, mình bắt gặp bà ấy nhìn ông ta đúng lúc bà ấy không ngờ có người đang quan sát; ôi chao, cứ như thể qua đôi mắt bà ấy, mình đã nhìn thấu tận tâm hồn bà ấy, và bà ấy căm ghét ông ta... sợ hãi ông ta. Giờ bà ấy đang ngồi kia, ngay cạnh ông ta, nhỏ bé, gầy còm, ăn mặc lạc mốt, tóc bạc da mồi cả rồi, nhưng bà ấy, chính bản thân bà ấy, là một ngọn lửa phản kháng cháy đỏ hừng hực. Điều bà ấy mong muốn là được thoát khỏi ông ta... hay chỉ cần phản kháng lại dù chỉ một lần. Thế là bà ấy thỏa mãn rồi.



“Chú Dean ngồi kia... mình thật không hiểu điều gì đã mang chú ấy đến buổi cầu nguyện tập thể chứ? Vẻ mặt chú ấy rất nghiêm túc, nhưng ánh mắt chú ấy thì tràn ngập vẻ giễu cợt dành cho ông Sampson... mà ông Sampson đang nói gì vậy nhỉ?... Ôi chao, lại chuyện gì đó về các trinh nữ khôn ngoan[1] đây mà. Mình ghét các trinh nữ khôn ngoan, mình thấy họ ích kỷ khủng khiếp. Nhẽ ra họ có thể san sẻ cho những cô gái khờ dại tội nghiệp kia một ít dầu. Mình không tin là sự ngợi ca mà Chúa Jesus dành cho họ sẽ nhiều hơn sự ngợi ca mà Người muốn dành cho viên quản gia bất lương; theo mình thấy, Người chỉ đang cố gắng cảnh báo những người khờ dại để họ không được tỏ ra bất cẩn và khờ dại thôi, vì nếu họ mà như thế, những kẻ khôn ngoan ích kỷ sẽ chẳng đời nào giúp đỡ họ. Không hiểu liệu có đáng bị coi là xấu xa không nếu mình cảm thấy thà ở bên ngoài với những người khờ dại để mà cố gắng an ủi giúp đỡ họ, còn hơn là ở bên trong tiệc tùng cùng những kẻ khôn ngoan. Như thế còn thú vị hơn nhiều.



[1] Dụ ngôn về Mười trinh nữ chép trong sách Phúc âm Matthew: Mười cô trinh nữ cầm đèn đón chàng rể. Năm cô được xem là khờ dại vì mang đèn mà không mang thêm dầu, còn năm cô kia được cho là khôn ngoan vì mang đèn còn chuẩn bị cả bình dầu đầy. Chờ mãi chưa thấy chàng rể đến nên cả mười cô đều ngủ thiếp đi. Nửa đêm, có tiếng hô: Chàng rể đến. Nhưng lúc này, đèn của năm cô khờ dại đều hết dầu nên tắt ngóm. Mượn dầu thì không được, các cô đành chạy ra quán mua. Nhưng mua xong dầu về đến nơi thì cửa đã đóng, tiệc cưới đã bắt đầu. Năm cô khờ dại đành phải ra về trong hối tiếc.



“Kia là bà Kent và Teddy. Ôi chao, bà ấy khát khao cháy bỏng một thứ... mình không biết là thứ gì, nhưng nó là thứ bà ấy không bao giờ có thể giành được, và khát vọng giành được nó đã dằn vặt bà ấy suốt cả ngày lẫn đêm. Bởi vậy bà ấy mới suốt ngày kè kè bên Teddy như thế, mình biết mà. Nhưng mình không biết cái gì đã khiến bà ấy khác hẳn so với những phụ nữ khác. Mình không bao giờ có thể liếc vào trong tâm hồn bà ấy... bà ấy ngăn chặn mọi ánh nhìn... cánh cửa chẳng khi nào lỏng then mở khóa.



“Còn mình mong muốn gì nhất nhỉ? Đó chính là leo lên tận đỉnh con đường Alps,



“ Và viết lên trên bảng danh sách chói ngời



Cái tên hèn mọn của một người phụ nữ.



“Tất cả chúng ta đều đói. Tất cả chúng ta đều muốn một chút bánh mì sự sống... ấy vậy nhưng ông Sampson lại không thể trao nó cho chúng ta. Không biết ông ấy muốn gì nhất nhỉ? Tâm hồn ông ấy cứ sền sệt đến nỗi chẳng thể nhìn thấu được. Ông ấy có vô vàn mong muốn hèn hạ... ông ấy chẳng mong muốn bất kỳ thứ gì đủ độ để bị nó chi phối. Cha Johnson muốn giúp đỡ mọi người và thuyết phục mọi người làm điều đúng đắn... cha thật tâm muốn thế. Còn mong mỏi cháy bỏng nhất của dì Janey là được chứng kiến toàn bộ thế giới ngoại đạo đều cải sang Cơ Đốc giáo. Tâm hồn dì ấy không ẩn chứa bất kỳ ước mong đen tối nào. Mình biết thầy Carpenter muốn gì... cơ hội từng tuột mất một lần nữa quay trở lại. Katherine Morris muốn tìm lại tuổi thanh xuân... bà ấy căm ghét mọi đứa con gái trẻ tuổi hơn như bọn mình bởi vì bọn mình trẻ trung. Cụ Malcolm Strang chỉ ước ao được sống... chỉ cần thêm một năm nữa thôi... lần nào cũng chỉ cần thêm một năm nữa... chỉ cần được sống... chỉ cần không phải chết. Hẳn phải khủng khiếp biết bao nhiêu khi sống mà chẳng có mục đích gì ngoại trừ trốn chạy cái chết. Nhưng ông ấy vẫn tin vào thiên đường... ông ấy vẫn chắc mẩm rồi sẽ đến đó. Ông già tội nghiệp ấy, giá như có thể nhìn thấy ánh chớp của mình đây dù chỉ một lần thôi thì ắt hẳn ông ấy đã chẳng bày tỏ thái độ ghét cay ghét đắng như thế khi nghĩ về cái chết. Còn Mary Strang lại muốn chết... trước khi một thứ khủng khiếp nào đó mà bà ấy e sợ sẽ hành hạ bà ấy cho tới chết. Nghe nói đó là bệnh ung thư. Còn có ông Morrison Khùng đang ở khu vực dành cho ban đồng ca nữa... mọi người đều biết ông ấy muốn gì... tìm thấy Annie của ông ấy. Tom Sibley thì có lẽ muốn mặt trăng... và biết rõ anh ta không bao giờ có thể lấy được nó... bởi vậy người ta mới bảo anh ta hơi điên điên khùng khùng. Amy Crabbe muốn Max Terry quay lại với chị ấy... ngoài chuyện đó ra thì chẳng còn gì quan trọng cả.



“Ngày mai mình sẽ phải viết hết những chuyện này vào cuốn sổ Jimmy. Chúng thật hấp dẫn xiết bao... nhưng, xét cho cùng, mình vẫn thích viết về những điều tốt đẹp hơn. Chỉ có điều, ở chúng lại có một ý vị mà những thứ tốt đẹp không có được. Những cánh rừng ngoài kia... trông chúng lạ kỳ xiết bao giữa bóng tối và ánh sáng bạc. Ánh trăng đang trùm lên những tấm bia một một tấm màn kỳ lạ, khiến cho ngay cả những tấm bia xấu xí cũng trở nên đẹp đẽ hẳn. Nhưng trời nóng hầm hập, trong này chẳng khác gì cái lò nung, còn tiếng sấm ầm ì càng lúc càng dội lại gần hơn. Hy vọng Ilse và mình kịp về nhà trước khi bão nổi. Ôi chao, ngài Sampson à, ngài Sampson, Chúa đâu có phải vị Chúa giận dữ... ngài mà nói thế thì chứng tỏ ngài chẳng hiểu gì về Người hết... tôi dám chắc Người vô cùng phiền muộn khi chúng ta tỏ ra khờ dại xấu xa, nhưng Người không phát điên phát khùng lên. Chúa của ngài và Chúa của bà Ellen Greene giống nhau như hai giọt nước vậy. Tôi chỉ muốn đứng bật dậy nói với ngài như thế, nhưng giữa nhà thờ mà trả lời một cách xấc xược thì chẳng phù hợp với truyền thống của nhà Murray chút nào. Ngài đã bôi xấu Chúa... trong khi Người tốt đẹp nhường ấy. Tôi căm ghét ngài vì đã bôi xấu Chúa, đồ béo ị lùn tịt.”



Và rồi đúng lúc đó, ông Sampson, vốn đã vài lần để ý đến ánh mắt thăm dò chăm chú của Emily và cứ đinh ninh ta đây đang gây được ấn tượng cực kỳ lớn lao khiến cô gái ý thức được rõ ràng tình trạng không được cứu vớt của bản thân, kết thúc bài giảng bằng những lời khẩn nài chốt hạ vô cùng khẩn thiết, và ngồi xuống. Vốn đang phải chen chúc giữa bầu không khí ngột ngạt bức bí của ngôi nhà thờ đông đúc lờ mờ ánh đèn, các khán thính giả đều nhẹ nhõm thở phào ra thành tiếng, và gần như chẳng buồn đợi đến lúc hát thánh ca và đọc kinh Tạ ơn, họ cứ thế ùn ùn kéo ra ngoài tìm đến với bầu không khí trong lành hơn. Mắc kẹt giữa dòng người và bị tách ra khỏi bà Laura, Emily bị đẩy dạt ra bên, xuyên qua cánh cửa dẫn vào khu vực dàn đồng ca mà lọt vào ngay bên trái bục giảng kinh. Phải mất một lúc cô mới chật vật thoát ra khỏi đám đông và hối hả vòng ra phía trước, hy vọng sẽ gặp được Ilse ở đó. Ở đây lại là một đám đông nữa, nhưng chẳng mấy chốc đã vãn người, tuy nhiên cô vẫn không thấy bóng dáng Ilse đâu. Đột nhiên, Emily nhận ra cô không mang theo quyển thánh ca. Cô vội vã lao ngược trở lại chỗ cửa dẫn vào khu vực dàn đồng ca. Chắc hẳn cô đã bỏ quên cuốn sách thánh ca ở chỗ ghế ngồi... trong khi lẽ ra không bao giờ được phép để quên nó ở đó. Cốt để cho an toàn, cô đã kẹp vào giữa cuốn thánh ca mẩu giấy lưu lại vài ghi chép rời rạc được cô lén lút viết trong thời gian xướng bài thánh ca cuối cùng - một bản miêu tả khá chua cay về cô Potter gầy giơ xương thuộc dàn hợp xướng, mấy câu châm biếm nhằm vào chính cha Sampson, thêm cả một vài tưởng tượng ngẫu nhiên mà cô muốn giấu kín nhất vì nó chất chứa một phần giấc mơ và sự tưởng tượng hẳn sẽ khiến cho bất cứ sự nhòm ngó nào từ những đôi mắt xa lạ cũng trở thành hành động báng bổ thánh thần.



Lúc cô vào trong, cụ Jacob Banks, ông lão vừa mù dở vừa nghễnh ngãng nhận nhiệm vụ trông nom nhà thờ, đang tắt dần đèn đóm. Ông đã tắt đến hai cây đèn trên tường phía sau bục giảng kinh. Emily vớ lấy cuốn thánh ca của cô đang để trên giá... chẳng thấy mẩu giấy của cô đâu. Dưới ánh sáng lờ mờ do ông Jacob Banks đã tắt nốt cây đèn cuối cùng, cô nhìn thấy nó nằm trên sàn nhà, dưới cái ghế cầu nguyện phía trước. Cô quỳ xuống, vươn tay ra với lấy mẩu giấy. Giữa lúc đó, cụ Jacob bước ra ngoài và khóa cánh cửa dẫn vào khu vực dàn thánh ca.



Emily không nhận ra ông lão trông coi nhà thờ đã đi mất; ngôi nhà thờ vẫn đang lờ mờ sáng dưới sự chiếu rọi của vầng trăng cho đến lúc này vẫn chưa bị nhấn chìm sau những đám mây dông đang không ngừng đùn lên cuồn cuộn. Ấy vậy nhưng hóa ra đó vẫn không phải mẩu giấy cô cần tìm... không hiểu nổi nó đang ở đâu nữa?... ồ, rốt cuộc thì cũng thấy nó đây rồi. Emily nhặt mẩu giấy lên và chạy tới bên cánh cửa, nhưng cửa lại không mở.



Đến lúc đó, Emily mới nhận ra ông cụ Jacob Banks đã đi mất, chỉ còn lại một mình cô trong nhà thờ. Cô hì hục tìm cách mở cửa nhưng chỉ hoài công vô ích, rồi cô gọi ông cụ Banks nhưng cũng chẳng có tác dụng gì. Cuối cùng, cô lao đi giữa hai hàng ghế, chạy ra hiên trước. Giữa chừng, cô nghe thấy tiếng cỗ xe độc mã cuối cùng ken két xoay đầu bên cổng vào rồi chạy đi mất: cùng lúc đó, mặt trăng đột ngột bị những đám mây đen sì nuốt chửng và ngôi nhà thờ mất hút giữa bóng tối - bóng tối dày đặc, oi ả, bức bối, gần như có thể sờ mó được. Emily thét lên trong nỗi hoảng loạn bất ngờ... nện thình thịch vào cửa ra vào... điên cuồng vặn tay nắm cửa... rồi lại kêu lên. Ôi, mọi người đâu thể đi hết rồi cơ chứ... chắc chắn ai đó sẽ nghe thấy tiếng cô! “Bác Laura ơi”... “Bác Jimmy ơi”... “Ilse”... rồi cuối cùng rền rĩ tuyệt vọng... “Ôi, Teddy ơi... Teddy!”




Thực thế, tại sao kia chứ! Đấy là một câu hỏi không dễ gì trả lời. Sự thật có vẻ giống một câu chuyện bịa đặt ngớ ngẩn, xuẩn ngốc. Dẫu vậy, Teddy vẫn nhắc lại.



“Bạn ấy gọi con,” cậu nói thẳng thừng.



“Và con nghe thấy cô ta... từ cách xa hàng dặm. Con tưởng mẹ tin chuyện đó hả?” bà Kent vừa nói vừa cười sằng sặc.



Đến lúc này, Emily đã bình tĩnh trở lại sau cơn hoảng loạn. Từ khi được chào đời với cái tên Emily Byrd Starr, cô chưa khi nào bị lúng túng quá lâu. Cô ngạo nghễ đứng thẳng dậy, và trong ánh sáng lờ mờ ấy, bất chấp những đường nét Starr của mình, trông cô không khác gì một Elizabeth Murray thời còn trẻ hơn bây giờ ba mươi tuổi.



“Cho dù bà có tin hay không thì đó là sự thật, thưa bà Kent,” cô kiêu kỳ nói. “Cháu không cướp con trai bà... cháu không muốn cậu ấy... cậu ấy cứ việc đi đi.”



“Trước tiên tớ sẽ đưa cậu về nhà đã, Emily,” Teddy nói. Cậu khoanh tay lại, ngửa đầu ra sau và cố tỏ ra oai nghiêm y như Emily. Cậu cảm thấy nỗ lực đó đã thất bại một cách thảm hại, ấy vậy nhưng thái độ đó vẫn tác động mạnh mẽ đến bà Kent. Bà òa lên nức nở.



“Đi đi... đi đi,” bà nói. “Cứ đi với cô ta đi... mặc kệ mẹ muốn ra sao thì ra.”



Đến lúc này thì Emily đã giận dữ đến tột độ. Nếu người đàn bà chẳng thèm biết trời cao đất dày này cứ một mực đòi gây chuyện thì cũng tốt thôi: sẽ có chuyện đáng cho bà ta xem.



“Cháu sẽ không để cậu ấy đưa về nhà,” cô lạnh lùng nói. “Teddy, đi với mẹ cậu đi.”



“Ái chà, cô ra lệnh cho nó đấy à? Vậy là nó phải răm rắp tuân theo lời cô phỏng?” bà Kent kêu lên, có vẻ như đã hoàn toàn mất kiểm soát. Thân hình nhỏ thó của bà rung lên bần bật theo nhịp những cơn thổn thức dữ dội. Bà bóp chặt hai bàn tay.



“Nó sẽ tự mình lựa chọn,” bà kêu lên. “Nó sẽ đi cùng cô... hoặc đến với tôi. Chọn đi, Teddy, tự mình quyết định đi. Con đừng có nghe cô ta sai bảo. Chọn đi!”



Một lần nữa không thể kiềm chế được thái độ quá khích của mình, bà giơ tay lên chĩa thẳng vào Teddy tội nghiệp.



Lúc này, Teddy vừa thấy khổ sở lại vừa nhen nhóm nỗi tức giận, một cảm giác quen thuộc đối với bất kỳ tên đàn ông con trai nào khi phải tận mắt chứng kiến hai người phụ nữ tranh cãi về anh ta. Cậu chỉ mong sao mình đang ở nơi nào đó cách xa cả nghìn dặm. Thật chẳng khác gì một mớ bòng bong... mà lại còn cư xử lố bịch đến thế này trước mặt Emily nữa chứ! Thế quái nào mà mẹ cậu lại không thể xử sự giống như bao nhiêu bà mẹ khác chứ? Việc gì mà bà cứ phải tỏ ra căng thẳng rồi sồn sồn lên như thế chứ? Cậu biết thừa dân làng Hồ Blair vẫn kháo nhau rằng bà “hơi ấm đầu”. Cậu không tin câu chuyện ngồi lê đôi mách đó. Nhưng... nhưng... chà, nói tóm lại đây đúng là một mớ bòng bong. Lần nào ta cũng phải quay lại với nó. Cậu biết làm gì đây? Cậu biết rõ nếu cậu đưa Emily về nhà, mẹ cậu rồi sẽ khóc lóc cầu nguyện hết ngày này sang ngày khác cho xem. Nhưng mặt khác, thật không thể tưởng tượng nổi cậu có thể bỏ mặc Emily sau khi cô vừa trải qua kinh nghiệm đáng sợ như thế trong nhà thờ, rồi để kệ cô băng qua con đường quạnh quẽ kia. Nhưng giờ Emily đã làm chủ tình hình. Cô đang tức giận tột độ với nỗi tức giận lạnh băng của ông cụ Hugh Murray vốn không đời nào tự tiêu tán bằng màn quát tháo chẳng đâu vào với đâu mà sẽ đánh thẳng vào vấn đề trọng điểm.



“Bà là kẻ ích kỷ ngu ngốc,” côn nói, “và rồi bà sẽ khiến con trai bà phải căm ghét bà.”



“Ích kỷ! Cô gọi ta là kẻ ích kỷ đấy à,” bà Kent nức nở. “Ta chỉ sống vì Teddy thôi... thằng bé là lý do duy nhất để ta sống trên đời này.”



“Bà đúng là người ích kỷ.” Giờ Emily đang đứng thẳng: đôi mắt cô tối lại, giọng cô sắc như dao, khuôn mặt cô lồ lộ “nét mặt nhà Murray”, và dưới ánh trăng nhợt nhạt, nó phần nào khiến người ta sợ hãi. Dù đã cất tiếng, cô vẫn băn khoăn không hiểu làm sao mình lại chắc chắn về những chuyện ấy đến thế. Nhưng đúng là cô biết vậy thật. “Bà cứ tưởng bà yêu cậu ấy... nhưng bà chỉ yêu chính bản thân mình thôi. Bà nhất quyết muốn phá hỏng cuộc đời cậu ấy. Bà sẽ không cho cậu ấy đến Shrewsbury, bởi vì nếu rời xa cậu ấy, bà sẽ thấy đau khổ. Bà để nỗi ghen tuông đối với tất cả những gì cậu ấy quan tâm gặm nhấm trái tim bà, và để nó điều khiển bà. Bà không vì cậu ấy mà chấp nhận bất kỳ nỗi đau dù nhỏ bé đâu. Bà không xứng đáng làm mẹ. Teddy là một thiên tài... tất cả mọi người đều nói thế. Lẽ ra bà phải thấy tự hào vì cậu ấy... lẽ ra bà phải cho cậu ấy cơ hội. Nhưng bà đâu có làm thế... và rồi sẽ có ngày cậu ấy căm ghét bà vì chuyện đó... đúng đấy, rồi cậu ấy sẽ như thế cho xem.”



“Ôi, không, không,” bà Kent rền rĩ. Bà giơ cả hai bàn tay lên như muốn đỡ đòn và co rúm người lại nép vào Teddy. “Ôi, cô thật độc ác... độc ác. Cô làm sao biết ta đã phải chịu đựng những gì... cô làm sao biết được nỗi đau vẫn luôn thường trực trong trái tim ta. Thằng bé là tất cả những gì ta có... tất cả. Ta chẳng có gì khác cả... ngay một ký ức cũng không. Cô thì hiểu cái gì. Ta không thể... không thể nhường nó cho ai được.”



“Nếu bà cứ để mặc cho lòng ghen tuông của bà hủy hoại cuộc đời cậu ấy, thì rồi bà sẽ mất cậu ấy thôi,” Emily nói chắc như đinh đóng cột. Từ trước tới giờ cô vẫn luôn sợ bà Kent. Nhưng ngay lúc này, cô bỗng nhiên không còn thấy sợ bà ta nữa... cô biết mình sẽ không bao giờ còn sợ bà ta nữa. “Bà căm ghét hết thảy mọi thứ cậu ấy quan tâm... bà ghét bạn bè cậu ấy, ghét con chó của cậu ấy, và cả những bức tranh của cậu ấy. Bà biết thừa như vậy. Nhưng bà không thể dùng cách đó để níu giữ cậu ấy được đâu, bà Kent. Và bà sẽ chỉ nhận ra điều đó khi đã quá muộn rồi. Tạm biệt cậu, Teddy. Cảm ơn cậu lần nữa vì đã đến cứu tớ. Chào bà, bà Kent.”



Lời tạm biệt của Emily rất dứt khoát. Cô quay người, ngẩng cao đầu sải bước băng qua bãi cỏ, không buồn liếc mắt lấy một lần. Cô hiên ngang bước trên con đường ẩm ướt... thoạt đầu trong tâm trạng giận dữ tột độ... rồi, khi cơn giận lắng xuống thì là cảm giác mệt mỏi thay thế... ôi, mệt mỏi rã rời. Cô nhận ra toàn thân mình đang run rẩy vì mệt. Những cảm xúc chất chồng trong buổi tối hôm nay đã rút cạn mọi sức lực của cô, còn bây giờ... biết làm gì đây? Cô không muốn quay trở về Trăng Non. Emily có cảm giác cô không bao giờ có thể đối mặt với cơn giận dữ của bà Elizabeth nếu một số hành vi tai tiếng trong buổi tối nay bị lôi ra ngoài ánh sáng. Cô rẽ vào cổng nhà bác sĩ Burnley. Nhà ông chẳng bao giờ khóa cửa. Emily rón rén chui vào tiền sảnh đúng lúc bình minh bắt đầu lờ nhờ thắp sáng bầu trời và cuộn mình trong chiếc ghế dài nằm đằng sau cầu thang. Có cố đánh thức Ilse cũng chẳng ích gì. Đến sáng cô sẽ kể lại toàn bộ câu chuyện cho Ilse nghe và buộc cô bạn hứa giữ bí mật... ít nhất cũng là toàn bộ câu chuyện ngoài trừ điều Teddy đã nói cộng với phần liên quan đến bà Kent. Một cái quá đẹp đẽ, còn một cái lại chẳng có gì hay ho để kể cho người khác. Tất nhiên, bà Kent không giống những người phụ nữ bình thường khác và có khó chịu bực mình cỡ nào vì chuyện đó thì cũng chẳng ích lợi gì. Dù vậy, bà đã đập nát, đã hủy hoại một thứ vừa đẹp đẽ vừa mong manh...bà đã vô duyên vô cớ là vấy bẩn một khoảnh khắc đáng lẽ ra nên được vĩnh viễn bao phủ trong bầu không khí ngọt ngào. Và, tất nhiên, bà đã khiến cho Teddy tội nghiệp tự cảm thấy mình chẳng khác gì một con lừa. Xét đến cùng, đó mới là điều Emily thực tình không thể tha thứ được.



Trong lúc mơ màng trôi vào giấc ngủ, cô lơ mơ nhớ lại những sự kiện đã diễn ra trong buổi tối đầy bối rối đó... cô bị nhốt trong ngôi nhà thờ quạnh quẽ... cảm giác hoảng loạn khi chạm phải con chó... nỗi hoảng loạn tồi tệ khi bị lão Morrison Khùng truy đuổi... cảm giác nhẹ nhõm đến ngất ngây khi cô nghe thấy tiếng Teddy... khoảnh khắc thơ mộng ngắn ngủi dưới ánh trăng mờ giữa khu nghĩa địa... bao nhiêu chốn dành cho câu chuyện tình thơ mộng mà rốt cuộc lại là chốn đấy chứ!... sự xuất hiện vừa bi vừa hài của bà Kent tâm lý bất thường chỉ giỏi ghen tuông.



“Hy vọng mình không tỏ ra quá đáng với bà ấy,” Emily thầm nghĩ trong lúc chìm dần vào giấc ngủ. “Nếu không thì mình rất lấy làm tiếc. Mình sẽ phải viết nó vào trong cuốn nhật ký, coi như một hành động xấu. Chẳng hiểu sao mình cứ có cảm giác như tối nay, bỗng nhiên trưởng thành hẳn... ngày hôm qua cứ như đã trôi xa hàng bao nhiêu năm rồi vậy. Nhưng những chuyện tối nay sẽ giúp mình viết được một chương đến là hay trong nhật ký cho xem. Mình sẽ viết lại hết mọi chuyện... hết tất tật mọi chuyện ngoài trừ việc Teddy đã nói mình là cô gái đáng yêu nhất trần đời. Điều đó quá... thân thương... để có thể viết thành câu chữ. Mình sẽ... chỉ... ghi nhớ trong lòng thôi.”