Emily Trên Dải Cầu Vồng

Chương 4 : “Theo cách người khác nhìn chúng ta”

Ngày đăng: 16:05 19/04/20


Emily đã lau dọn khắp lượt sàn bếp ở Trăng Non và giờ đang mê mải dùng giấy ráp đánh bóng mặt sàn men theo đúng các đường “hoa văn chữ chi” tuy đẹp nhưng rất phức tạp, vốn là một trong những truyền thống tại Trăng Non và nghe đồn được phát minh bởi cụ cố từng nổi tiếng với câu nói “Tôi sẽ ở đây”. Bà Laura đã dạy Emily cách làm và Emily rất tự hào về kỹ năng của mình. Ngay cả bà Elizabeth cũng phải hạ cố nhận xét Emily đã rất khéo tay trong việc đánh bóng các hoa văn nổi tiếng đó, và một khi bà Elizabeth đã phải cất lời khen ngợi thì mọi bình luận xa xôi hơn cũng trở thành vô dụng mà thôi. Ở làng Hồ Blair, chỉ độc có trang trại Trăng Non là vẫn giữ gìn phong tục lâu đời dùng giấy ráp đánh bóng mặt sàn; từ lâu các bà nội trợ khác đã bắt đầu sử dụng những thiết bị “mới toanh” cũng như nhiều dụng cụ vệ sinh tinh xảo nhằm làm trắng sàn nhà. Nhưng quý bà Elizabeth Murray không nằm trong nhóm đó; chừng nào bà còn nắm quyền cai quản Trăng Non thì chừng đó nến vẫn còn được thắp sáng và sàn nhà vẫn được dùng giấy ráp đánh sáng bóng như gương. Bà Elizabeth từng khiến Emily bực mình đến phát điên vì cứ nhất định đòi cô phải khoác bộ “Mẹ Hubbard” cũ rích của bà Laura trong lúc lau chùi sàn nhà. Có lẽ cũng cần phải giải thích một chút cho các thành viên của thế hệ này biết, “Mẹ Hubbard” là một chiếc váy suông kỳ quái về cơ bản được sử dụng như một bộ váy ở nhà và thời xưa từng rất được ưa chuộng vì vừa mát mẻ vừa dễ mặc. Có lẽ chẳng cần phải nói cũng biết, bà Elizabeth hoàn toàn phản đối kiểu váy Mẹ Hubbard này. Theo cách nhìn nhận của bà thì chúng là thành tựu mới nhất của sự lôi thôi luộm thuộm, và bà Laura không bao giờ được phép có thêm bất kỳ chiếc nào nữa. Tuy nhiên, với chiếc váy cũ kia, cho dù màu tử đinh hương xinh đẹp ban đầu đã bị phai thành sắc trắng nhờ đục thì nó vẫn còn quá “tốt” nên chưa nhất thiết phải bị tống ra thùng rác; và nó chính là cái váy Emily bị bắt mặc lên người.



Cũng chẳng khác gì bà Elizabeth, Emily căm ghét cái kiểu váy Mẹ Hubbard ấy đến tận tâm can. Với cô, chúng còn tệ hơn cả đám “tạp dề em bé” đáng ghét mà cô phải mặc hồi mùa hè đầu tiên đặt chân đến trang trại Trăng Non. Cô biết thừa trông mình sẽ lố bịch đến thế nào trong chiếc váy Mẹ Hubbard của bà Laura, vốn dài tới tận chân cô mà lại buông thõng xuống từ đôi vai gầy gò của cô, trông vừa lùng thùng vừa xấu xí; và Emily thì luôn sợ bị trở nên “lố bịch”. Cô từng khiến bà Elizabeth choáng váng khi lạnh lùng tuyên bố rằng cô “thà xấu xí còn hơn lố bịch”. Thành ra Emily lau chùi đánh bóng sàn nhà nhưng lúc nào cũng để mắt canh chừng cửa ra vào, sẵn sàng bỏ chạy nếu nhỡ có bất kỳ khách lạ nào xuất hiện giữa lúc cô đang chui trong cái váy gớm guốc đó.



“Bỏ chạy”, như Emily biết rõ mười mươi, không phải là một truyền thống của nhà Murray. Ở Trăng Non, ta cần giữ vững lập trường, bất kể là vì vấn đề gì... chẳng hạn như ta lúc nào cũng phải ăn mặc tề chỉnh đúng đắn phù hợp với tình hình. Emily ý thức được điều này hoàn toàn hợp lý, nhưng cô vẫn còn trẻ, vẫn còn khờ dại, đủ để canh cánh nỗi lo sẽ xấu hổ đến chết nếu có bất kỳ ai nhìn thấy cô đang khoác trên người cái váy Mẹ Hubbard của bà Laura. Cái váy gọn gàng thật đấy... sạch sẽ thật đấy... nhưng nó cũng thật “lố bịch”. Bạn cứ thử mà xem!



Đúng lúc Emily vừa chà cát xong xuôi và đang đem bình cát cất vào trong cái hốc nhỏ bên dưới bệ bếp, chỗ quen thuộc dành cho nó từ thời xưa, thì cô nghe có tiếng người lạ vọng lại từ ngoài khu vườn sau bếp. Nhòm vội qua cửa sổ, cô nhận ra ngay ai là chủ nhân của những giọng nói đó... cô Beulah Potter và bà Ann Cyrilla Potter, hiển nhiên, đang đến để tham dự cuộc họp của Hội Phụ nữ Cứu trợ theo kế hoạch. Họ thẳng tiến tới cửa sau, theo đúng thói thường ở Hồ Blair mỗi khi người ta đến nhà hàng xóm, kể cả để thăm hỏi thân tình lẫn bàn công chuyện; lúc này họ đã băng qua hàng thục quỳ rực rỡ sắc màu được ông Jimmy trồng hai bên con đường lát đá dẫn tới khu chế biến bơ sữa, và trong số toàn thể dân cư cả ở trong lẫn ngoài vùng Hồ Blair, họ là hai người Emily ít muốn bị bắt gặp nhất trong bất kỳ hoàn cảnh lố bịch nào. Không kịp cân nhắc, cô đâm bổ vào buồng để giày và đóng sầm cửa lại.



Bà Ann Cyrilla gõ cửa bếp hai lần, nhưng Emily không hề nhúc nhích. Cô biết bà Laura đang dệt vải trên căn gác xép áp mái; cô có thể nghe thấy tiếng bàn đạp thậm thịch văng vẳng phía trên đầu. Nhưng cô chắc mẩm bà Elizabeth đang làm bánh ở chái bếp và hẳn thể nào cũng nhìn thấy hai vị khách. Bà sẽ dẫn họ vào phòng khách và rồi Emily có thể chuồn khỏi chỗ này. Và có một điều cô đã hạ quyết tâm... họ không được phép nhìn thấy cô trong chiếc váy Mẹ Hubbard kia. Cô Potter là một phụ nữ gầy gò, chanh chua, ăn nói độc địa, thích ngồi lê đôi mách, lại có vẻ ghét bỏ tất cả mọi người nói chung và Emily nói riêng; còn bà Ann Cyrilla là một bà tám phốp pháp, hòa nhã, khéo léo, xinh đẹp, và, chính bởi sự ngọt ngào thân thiện của bà mà chỉ trong một tuần cũng đủ sức gây nên những tổn hại đích thực nhiều hơn cả cô Potter làm được trong hẳn một năm. Dù không thể cưỡng nổi cảm tình dành cho Ann Cyrilla, Emily vẫn không tin tưởng bà. Cô quá thường xuyên được nghe chuyện bà Ann Cyrilla giễu cợt những người vốn trước “mặt” luôn được bà bày tỏ thái độ dịu dàng duyên dáng, và bà Ann Cyrilla, vốn là một trong những “Wallace đỏm dáng” nơi Ao Thành Kiến, đặc biệt thích cười cợt những nét khác thường trong trang phục của người khác.



Tiếng gõ cửa lại vang lên; lần này xuất phát từ cô Potter, theo như suy đoán của Emily dựa vào những âm thanh giật cục. Họ đang dần mất kiên nhẫn. Chà, họ thích thì cứ việc gõ cho đến khi đàn bò về nhà đi, Emily thầm hứa trong lòng. Cô sẽ không ra mở cửa trong cái váy Mẹ Hubbard đâu. Rồi cô nghe tiếng Perry vọng từ ngoài vào, giải thích rằng bà Elizabeth đang hái quả mâm xôi ở bãi đất lổn nhổn gốc cây đằng sau chuồng bò, nhưng mời họ vào trong và cứ thoải mái như ở nhà, cậu sẽ đi gọi bà về. Trước sự tuyệt vọng của Emily, hai vị khách làm đúng thế thật. Cô Potter ngồi xuống kèm theo tiếng cọt kẹt, còn bà Ann Cyrilla thì nghe phù một tiếng, trong lúc tiếng bước chân rút lui của Perry tắt dần trong vườn. Emily nhận ra cô sắp đường cùng đến nơi rồi. Bên trong cái tủ giày tí hin này – vốn không chỉ đựng giày mà còn cất cả đống quần áo lao động của ông Jimmy nữa – vừa ngột ngạt vừa nóng hầm hập. Cô chỉ ước ao sao cho Perry sẽ không mất quá nhiều thời gian mới tìm ra bà Elizabeth.



“Ôi chao, trời nóng kinh lên được,” bà Ann Cyrilla vừa nói vừa rên ầm lên.



Emily tội nghiệp – không, không, chúng ta không được gọi cô là Emily tội nghiệp; cô không đáng phải nhận sự thương hại – cô rất ngốc nghếch và đã được đối xử vô cùng hợp tình hợp lý rồi; Emily, vốn khi đó mồ hôi đang vã ra như tắm, hoàn toàn đồng ý với bà.



“Tôi không dễ nóng bức như người béo,” cô Potter nói. “Hy vọng bà Elizabeth sẽ không bắt chúng ta phải chờ lâu quá. Bà Laura đang dệt vải... tôi nghe thấy tiếng máy dệt trên gác xép. Nhưng có gặp bà ấy cũng chẳng ăn thua... dù bà ấy hứa hẹn gì thì bà Elizabeth cũng sẽ chẳng buồn đếm xỉa cho xem, chỉ bởi vì đó không phải quyết định của bà ấy. Tôi thấy ai đó vừa chà cát đánh bóng sàn nhà xong. Bà có thấy những tấm ván mòn vẹt kia không? Thể nào bà lại chẳng đoán là bà Elizabeth Murray sắp lát sàn mới; ấy vậy nhưng tất nhiên bà ấy quá keo kiệt. Nhìn dãy nến trên mặt lò sưởi kìa... nhìn mà xem, ánh sáng đã kém lại còn thêm bao nhiêu phiền phức, chỉ vì nếu cho thêm tí dầu hỏa thì sẽ tốn kém hơn. Dào ôi, bà ấy đâu có mang tiền theo được chứ; dẫu có mang họ Murray đi chăng nữa thì rồi tới lúc đến cánh cổng vàng, bà ấy cũng phải bỏ tất cả lại phía sau thôi.”



Emily sững sờ choáng váng. Cô nhận ra mình không chỉ sắp chết ngạt trong tủ giày, giờ cô còn biến thành kẻ nghe lén – một việc cô chưa từng làm kể từ buổi tối tại Maywood, khi cô trốn dưới gầm bàn cốt nghe lỏm xem các ông cậu bà bác bàn bạc thế nào về số phận của cô. Tất nhiên, hồi đó cô chủ tâm làm thế, còn giờ là trong thế bất đắc dĩ – ít nhất, cái váy Mẹ Hubbard đã biến nó thành tình thế bất đắc dĩ. Nhưng chuyện đó không giúp cho những lời bình luận của cô Potter trở nên dễ lọt tai hơn. Ai cho cô ta cái quyền được gọi bác Elizabeth là kẻ keo kiệt? Bác Elizabeth không keo kiệt. Đột nhiên, Emily thấy giận cô Potter vô cùng. Chính cô cũng thường âm thầm chỉ trích bác Elizabeth, nhưng một người ngoài mà lại dám làm thế thì quả không thể nào chấp nhận được. Lại còn cái kiểu châm chọc những người họ Murray nữa chứ! Emily có thể hình dung ra ánh mắt cô Potter lóe lên đanh đá đến mức nào khi cô ta thốt lên câu này. Còn về những cây nến...



“Ánh nến có thể chiếu sáng cho người nhà Muray nhìn xa trông rộng hơn nhiều so với cô có thể nhìn dưới ánh mặt trời đấy, thưa cô Potter,” Emily khinh khỉnh hết mức so với một người đang bị cả một dòng sông mồ hôi tuôn đầm đìa sau lưng trong khi mũi chỉ ngửi thấy mùi da cũ.



“Chắc hẳn vì vấn đề chi phí nên năm nay bà ấy mới không cho Emily tiếp tục đến trường nữa,” bà Ann Cyrilla nói. “Hầu hết mọi người đều chắc mẩm dù sao đi nữa bà ấy cũng sẽ vẫn cho con bé học ở Shrewsbury một năm... cô hẳn sẽ cho rằng bà ấy thể nào cũng làm thế, nếu không phải vì lý do nào khác thì ít nhất cũng bởi lòng kiêu hãnh. Nhưng tôi nghe nói bà ấy đã quyết định ngược lại rồi.”



Tim Emily chùng hẳn xuống. Cho đến tận lúc này, cô vẫn chưa dám khẳng định bà Elizabeth sẽ không cho cô tới Shrewsbury. Nước mắt bắt đầu dâng lên ầng ậng... những giọt nước mắt thất vọng bỏng rát, nhức nhối.



“Emily phải được học nghề gì đó để kiếm sống thôi,” cô Potter nhận xét. “Cha con bé chẳng để lại cái gì sất.”



“Cha đã để cháu lại đấy thôi,” Emily thầm nói, siết chặt tay thành hai nắm đấm. Cơn giận dữ đã hong khô những giọt lệ trong mắt cô.



“Ối dà,” bà Ann Cyrilla nói, giọng thấm đẫm ý chế giễu ra chiều khoan dung lắm, “nghe đồn Emily định kiếm sống bằng nghề viết truyện đấy - không chỉ sống cho qua ngày đâu, mà tôi dám chắc con bé còn rắp tâm làm giàu nữa đấy.”



Bà lại cười lớn. Cái ý tưởng này mới lố bịch làm sao chứ. Đã lâu lắm rồi bà Ann Cyrilla không nghe thấy chuyện gì buồn cười đến thế.



“Người ta bảo con bé lãng phí đến quá nửa thời gian viết quếnh viết quáng những thứ vô bổ,” cô Potter đồng tình. “Tôi mà là bà Elizabeth thì chẳng mấy chốc sẽ chữa cho con bé khỏi cái thói hành động vớ vẩn như thế ngay.”



“Chẳng đơn giản thế đâu. Theo như tôi hiểu thì con bé lúc nào cũng khó dạy bảo lắm - quá cứng đầu cứng cổ đúng kiểu người nhà Murray. Cái đám ấy ai cũng ngang như cua hết.”



(Emily, đầy phẫn nộ: “Nghe cái cách nhận xét về chúng ta bất kính chưa kìa! Giá không phải đang mặc cái váy Mẹ Hubbard này thì mình đã tông cửa xông ra đối chất với họ rồi.”)



“Như hiểu biết của tôi về bản chất con người thì con bé rõ là cần phải được quản giáo cho chặt vào,” cô Potter nói. “Rồi nó sẽ thành kẻ lẳng lơ cho xem, ai nhìn cũng có thể thấy rõ như thế. Rồi nó sẽ lại thành một Juliet thứ hai thôi. Bà cứ đợi mà xem. Mới mười bốn tuổi đầu mà nó đã đánh mắt với tất cả mọi người rồi!”



(Emily, một cách đầy châm biếm: “Cháu không như thế! Và mẹ không phải kẻ lẳng lơ. Mẹ hoàn toàn có khả năng, nhưng mẹ không trở thành người như thế. Còn bà thì dù có muốn cũng không làm được, bà cô già đáng kính ạ!”)



“Con bé đâu có được xinh đẹp như Juliet tội nghiệp, mà nó lại còn tẩm ngẩm tầm ngầm quá thể, vừa ranh mãnh vừa thâm sâu khó lường. Bà Dutton bảo trên trần đời bà ấy chưa từng gặp đứa trẻ nào ranh mãnh đến thế. Nhưng vẫn có những điểm khiến tôi thích ở cô bé Emily tội nghiệp ấy đấy.”



Giọng bà Ann Cyrilla đầy vẻ kẻ cả. Emily “tội nghiệp” co rúm lại giữa đống giày dép.



“Điểm khiến tôi không thích ở con bé là lúc nào nó cũng làm ra vẻ thông minh,” cô Potter nói giọng quả quyết. “Con bé toàn sử dụng những lời lẽ khôn ngoan học được từ trong sách nhưng lại mạo nhận đó là của mình...”




“ Không phải... tớ không như thế.



“ Có đấy. Cậu thích nó, tôi khăng khăng.



“ Chà, tất nhiên, Ilse nói, cười toe toét. Đúng là trong lúc nó diễn ra tớ thấy vui vẻ thật. Thật mãn nguyện kinh lên được khi nói những điều xúc phạm nhất, gọi ra những biệt danh tồi tệ nhất. Tớ tin là cậu nói đúng, Emily ạ. Tớ thích nó thật. Kỳ lạ thật đấy, ấy vậy mà chẳng bao giờ tớ nghĩ đến điều đó. Có lẽ nếu thật lòng không vui vẻ gì khi nổi giận thì tớ sẽ chẳng giận dữ làm gì cho cam. Nhưng sau khi mọi chuyện đã qua... tớ lại hối hận vô cùng. Hôm qua, sau khi cãi nhau với Perry, tớ đã khóc hàng giờ liền.



“ Phải, và cậu cũng thích chuyện đó... đúng không?



“Ilse trầm ngâm suy nghĩ một lúc.



“ Có lẽ thế thật, Emily ạ; cậu đúng là người kỳ lạ. Tớ sẽ không nói về chuyện này nữa. Đi tắm thôi. Không có quần áo hả? Không thành vấn đề. Cách đây cả dặm làm gì có ai đâu. Tớ không thể cưỡng lại những con sóng kia. Chúng đang gọi tớ.



“Tôi cũng cảm thấy y như vậy, và tắm dưới ánh trăng dường như là một chuyện lãng mạn xiết bao, thú vị xiết bao... mà nó đúng là như thế thật, khi những người nhà Potter chưa biết gì về nó. Đến khi biết rồi, họ đã làm nó hoen ố. Chúng tôi cởi quần áo trong một cái hõm nhỏ nằm giữa các đụn cát – trông chẳng khác gì một cái bát bàng bạc dưới ánh trăng – nhưng vẫn mặc nguyên váy lót. Chúng tôi đã vui đùa thỏa thích, vừa té nước vừa bơi lộ giữa làn nước xanh lấp lánh như dát bạc, giữa những con sóng nhẹ nhàng êm ái, y như hai nàng tiên cá hay hai nữ thần biển. Dường như chúng tôi đang sống trong một bài thơ hoặc một câu chuyện thần tiên. Và khi bước lên bờ, tôi chìa tay về phía Ilse, nói:



“ Bước tới đây nơi bãi cát vàng



Nhún gối chào hôn lên mặt cát,



Ngọn gió hoang tắt lời hát,



Khéo léo đặt bước chân



Và, những tiên nữ đáng yêu, gánh nặng trên thân.



“Ilse nắm tay tôi và chúng tôi nhảy vòng tròn trên bãi cát loang loáng ánh trăng, sau đó chúng tôi leo lên chỗ cái tô bạc, mặc quần áo vào rồi về nhà trong niềm hân hoan mãn nguyện. Tất nhiên, chỉ có điều chúng tôi phải cuộn hai cái váy lót ướt sũng lại kẹp dưới nách, thành ra có vẻ như váy của chúng tôi bám sát vào cơ thể, tuy nhiên chẳng ai nhìn thấy chúng tôi hết. Và giờ thì cả cái làng Hồ Blair này đều đang lấy làm chướng tai gai mắt đến tột độ vì chuyện đó đây.



“Dù sao đi nữa, tôi mong là chuyện này không đến tai bác Elizabeth.



“Thật quá tệ vì bà Price lại mất ăn mất ngủ đến thế trước chuyện của chú Dean và tôi. Chúng tôi đâu có làm bùa phép quái đản gì đâu... chúng tôi chỉ đơn thuần đi dạo trên núi Ngoạn Mục và dõi tìm dấu vết các bức tranh giữa những đám mây. Có lẽ hành động đó trẻ con thật đấy... nhưng nó thú vị vô cùng. Tôi thích chú Dean ở chính cái tính đó đấy... chú ấy chẳng bao giờ chỉ vì thấy nó có vẻ trẻ con mà e ngại không dám làm một chuyện vô hại và thú vị nào đó. Chú ấy chỉ cho tôi thấy một đám mây giống như in một thiên thần đang bay ngang bầu trời xanh nhạt tươi sáng rạng rỡ, ôm trên tay một đứa trẻ. Một tấm khăn voan mỏng tang màu xanh nhạt che phủ mái đầu của thiên thần mây, và bên dưới lớp voan ấy, một vì sao nhạt nhòa đầu tiên sáng nhấp nháy. Đôi cánh thiên thần được bịt vàng, còn chiếc váy trắng muốt lốm đốm màu đỏ sẫm.



“ Kia là Thiên Thần Sao Hôm đang bế ngày mai tới, chú Dean nói.



“Cảnh tượng đẹp đến nỗi đã khiến tôi chìm đắm trong một thời khắc huy hoàng. Nhưng chỉ mười giây sau nó đã thay đổi, không khác gì một con lạc đà với cái bướu ngoại cỡ!



“Chúng tôi đã có nửa tiếng đồng hồ tuyệt vời, dẫu cho bà Price, vốn chẳng nhìn thấy bất cứ thứ gì trên bầu trời, có cho rằng chúng tôi hẳn điên mất rồi.



“Chà, riêng trong vấn đề này, chẳng cần phải cố gắng chiều theo ý người khác làm gì. Điều duy nhất cần làm là sống đúng với bản chất của mình. Xét cho cùng, tôi tin vào bản thân mình. Tôi không xấu xa và ngu ngốc như họ vẫn tưởng, tôi cũng không mắc bệnh lao phổi, và tôi còn biết viết lách nữa. Giờ đây khi đã viết lại toàn bộ mọi chuyện, tôi cảm nhận sự việc theo cách khác hẳn. Điều duy nhất vẫn khiến tôi bực mình chính là việc cô Potter tỏ ra thương hại tôi... bị một người mang họ Potter thương hại kia đấy!



“Ngay lúc này đây, tôi dõi mắt ra ngoài cửa sổ và nhìn thấy thảm sen cạn của bác Jimmy... rồi bất chợt ánh chớp lóe lên... vậy là cả cô Potter, cả thái độ thương hại lẫn miệng lưỡi cay độc của cô ta dường như đều chẳng còn là vấn đề nữa. Sen cạn ơi, ai đã nhuộm màu cho các bạn vậy, những cây hoa rực rỡ tươi đẹp diệu kỳ? Chắc hẳn các bạn đã được tạo hình từ những buổi hoàng hôn mùa hè.



“Hè này, tôi đã giúp đỡ bác Jimmy rất nhiều công việc vườn tược. Tôi tin chắc tôi cũng yêu khu vườn chẳng thua kém gì bác ấy. Ngày nào chúng tôi cũng đều có những khám phá mới về hoa và nụ.



“Vậy là bác Elizabeth sẽ không cho tôi đến Shrewsbury! Ôi, tôi cảm thấy thất vọng đến độ cứ như thể tôi thật lòng mong mỏi bác ấy sẽ cho phép vậy. Dường như mọi cánh cửa cuộc đời đều đã đóng sập lại trước mặt tôi rồi.



“Nhưng xét cho cùng, tôi vẫn còn vô vàn điều đáng để cảm kích. Có lẽ rồi đến năm sau, bác Elizabeth sẽ cho phép tôi học ở đây thôi, còn thầy Carpenter có thể chỉ bảo cho tôi rất nhiều; tôi không phải kẻ đáng ghê tởm; ánh trăng vẫn đẹp đẽ xiết bao; rồi sẽ có ngày tôi dấn thân vào sự nghiệp viết lách... và tôi có một con mèo lông xám đáng yêu mặt tròn vành vạnh vừa mới nhảy tót lên trên bàn, dụi dụi mũi vào cây bút của tôi như muốn ra nhắc nhở rằng tôi viết liền một mạch như thế là đủ lắm rồi.



“ Mèo xám mới đích thực là mèo chứ!”