Gặp Lại Chốn Hồng Trần Sâu Nhất
Chương 28 : Chấp mê
Ngày đăng: 08:32 19/04/20
Tạm thời ném trách
nhiệm và sứ mệnh sang một bên, Ngài không còn là vị vua lớn nhất của
cung Potala, Ngài chỉ muốn làm lãng tử không tên trên đường phố Lhasa,
làm tình lang tuấn tú của Dawa Dolma.
Có một số nơi mà đời này
nhất định phải đi, chỉ có đích thân thăm thú non nước phương xa, khiến
giấc mơ hư ảo trở thành chân thực sống động, mới không uổng công đến
nhân gian này một chuyến. Nhưng khi chúng ta nhìn thấy tình cảnh trong
mơ, phong cảnh tuyệt đẹp như vậy, liệu chúng ta có thể yên lặng không
lời hay chăng? Há chẳng biết, mỗi hạt bụi trần rơi xuống đều sẽ quấy
nhiễu nó. Khi chúng ta bước vào tu viện Tashilhunpo ở Shigatse Tây Tạng, nên hiểu rằng, từng cành cây ngọn cỏ, từng viên gạch ngói, từng vị sư
vị sãi ở đây, đều không nên bị làm phiền.
Màu sắc của mặt trời
khi lặn thật sự rất đẹp, tu viện Tashilhunpo không biết được ai tráng
lên một lớp màu đỏ rực, tựa như hoàng hôn đã uống say. Con đường lát đá
được năm tháng mài bóng kia đã cất giữ biết bao nỗi lưỡng lự hoang mang
và cố chấp của khách hành hương. Chúng ta nên tin rằng, ở đây trước sau
đều có một lá kinh phướn phấp phới, chờ đợi bạn và tôi. Chỉ là đứng lặng hồi lâu trước điện Phật trang nghiêm, ngắm trời xanh mênh mông rộng
lớn, nghe tiếng chuông đồng trong trẻo lay tỉnh ký ức kiếp trước, không
biết những người đột nhập đất thánh này đi vào cảnh thiền, còn có thể
bước ra hay không?
Ba trăm năm trước, vị Phật sống tên là
Tsangyang Gyatso ấy thọ giới ở đây, một ngọn đèn bơ cũ kỹ của tu viện
Tashilhunpo nhớ được tình cảnh năm đó. Tsangyang Gyatso trẻ tuổi ngồi
trang nghiêm trước mặt Ban Thiền thứ 5 và mấy vị Thượng Sư, Ngài nhắm
mắt niệm kinh, sắc mặt lạnh nhạt như băng. Mặc cho đại sư khuyên giải và hướng dẫn, vẻ bình tĩnh của Ngài khiến mọi người cảm thấy hết sức lúng
túng và đáng tiếc. Thời khắc đó Ban Thiền thứ 5 hiểu rõ, đời người trăm
dạng, dù bước vào cửa Phật, đông đảo sư sãi vẫn mội người có một duyên
pháp và số mệnh riêng. Có người muốn danh lợi, có người muốn tình yêu,
có người chỉ nguyện suốt đời ở bên Phật tổ, không mong không cầu. Ngắm
kiên quyết ra đi, có thể thấy một người vì ham muốn quyền lực, không hề
tiếc rẻ bất chấp thủ đoạn, nuốt lời lật lọng.
Chẳng ai biết vì lý do nào khiến Tsangyang Gyatso thu hồi lời Ngài nói ra ở tu viện
Tashilhunpo. Là bởi nhẫn nhịn Sangye Gyatso? Là bởi e sợ quyền uy của
Lha-bzang Khan? Bởi Ngài trước sau không bỏ được những người hành hương
nườm nượp không dứt? Hay vì Sangye Gyatso đã đáp ứng Ngài điều kiện gì
đó? Tóm lại, Tsangyang Gyatso tiếp tục ở lại trong cung Potala, làm Phật sống chí tôn của Ngài, tâm nguyện nhỏ nhoi không đáng kể kia rốt cuộc
không thể thực hiện. Bộ áo sư màu đỏ kia khoác lên trên người, vì sao
luôn khiến Ngài phiền lòng rối ý?
Tsangyang Gyatso mưu đồ chạy
trốn trong mưa, nhưng đi một vòng, lại trở về chỗ cũ. Khách hành hương
của cung Potala không mảy may giảm bớt vì tin đồn chốn phố chợ, họ không tin, không tin lời đơm đặt của Lha-bzang Khan, trong lòng họ, Tsangyang Gyatso chính là Phật sống của họ. Một vị tình tăng có thể viết ra những câu thơ tuyệt đẹp như thế thì sao có thể là Đạt Lai giả được? Ngài rõ
ràng chính là hóa thân của Thần Phật, những câu thơ của Ngài chính là
đống lửa rừng rực trong đêm tuyết, là đốm xanh ẩn hiện trong sa mạc, là
tia sáng bừng nở trong tăm tối.
Những bài tình ca sinh động này
được truyền xướng ngày càng vang dội trên đường phố Lhasa. Quán rượu nhỏ trên phố Barkhor, vì từng được một thanh niên phong lưu tên Dangsang
Wangpo ghé thăm nên đêm đêm đông nghịt khách. Họ đều biết, chàng lãng tử chìm đắm ở quán rượu này chính là vị Phật sống Tsangyang Gyatso ở trong cung Potala. Nhưng điều này không hề ảnh hưởng lòng kính mến của họ đối với Ngài, ngược lại khiến họ cảm thấy, vị Phật này là từ bi nhất, vì
Ngài không đứng ở nơi cao xa không với tới, đợi họ ngước đầu mong ngóng, mà thâm nhập dân gian, cùng họ hưởng thụ vẻ đẹp của khói lửa mịt mờ.
Hóa ra lòng người đều mềm yếu, khao khát tình cảm êm dịu và hạnh phúc như
thế. Chúng ta xưa nay đều không muốn thấy thế giới này chìm đắm trong
giết chóc, không muốn phải gánhh chịu nạn cướp bóc to lớn mà chiến tranh mang đến. Nếu mỗi một người đều có lòng lương thiện, yên vui với nếp
sống bình dị, ở thành thị nhỏ thuộc về mình cười tươi như hoa nở, ca hát như oanh yến, thế thì đẹp biết bao! Có lẽ không cần chờ đến khi giong
hết ngàn cánh buồm, nếm đủ trăm mùi vị, mới cam nguyện kề cận đồng quê
non xanh nước biếc, sống những ngày tháng thanh đạm nhất. Lúc ấy, phải
chăng có một cây bút nặng tình ghi lại bầu trời xanh thẳm, áng mây tinh
khiết, và những câu chuyện êm đềm kia giữa xóm làng với xóm làng cổ xưa?