Hành Trình Về Phương Đông
Chương 4 : Thành phố linh thiêng
Ngày đăng: 13:45 19/04/20
Rishikesh! Một tên gọi linh thiêng, thành phố của các vị thánh. Từ lâu nay người ta đã coi thành phố này như một thánh địa mà tất cả những kẻ cầu đạo đều phải đến để đắm mình trong bầu không khí thiêng liêng. Rishikesh nằm ở một vị trí đặc biệt và là cánh cửa vào rặng Hy Mã Lạp Sơn. Từ đó đi lên hướng Bắc là rặng núi hùng vĩ, chứa đựng những điều huyền bí. Phía nam là con sông Hằng, dòng sông thiêng của Ấn Giáo. Một người Ấn bất kể giai cấp, trí thức, đều ít nhất một lần trầm mình trong dòng nước này để đón nhận những ân phước mà dòng sông mang lại.
Ðúng như lời người Ấn bí mật thành Benares đã nói, khắp nơi đâu đâu cũng có các đạo sĩ và tín đồ hành hương. Có những đạo sĩ mình hạc, xương mai vừa đi vừa tụng niệm các câu thần chú. Có các đạo sĩ khổ hạnh chống gậy trầm tư bên dòng nước sông Hằng. Chen chúc bên các tín đồ huyên náo là các thuật sĩ quần áo sặc sỡ biểu diễn những trò lạ lùng. Một đạo sĩ to lớn, lực lưỡng, quấn khố bằng da cọp uốn mình trong tư thế Yoga bên cạnh một thuật sĩ gầy gò nằm lăn trên đất lâm râm cầu nguyện. Có các vị tăng sang sảng đọc kinh bên cạnh những giáo sĩ vừa đánh trống vừa nhẩy nhót, ca hát tên các vị thần. Có những tu sĩ thiền định trong những hang đá đục sâu vào núi, không màng thế sự bên cạnh những đạo sĩ râu tóc xồm xoàm, quấn mình trong những mãnh vải rách như một xác ướp. Có các tu sĩ nằm yên lặng, hơi thở thoi thóp như sắp chết bên cạnh những thuật sĩ say sưa gọi tên Thượng Ðế một cách ồn ào. Trong làn khói hương nghi ngút, các tín đồ hành hương chen vai thích cánh, trên mặt ai cũng một niềm thành kính rõ rệt. Phái đoàn cảm tưởng như đang lạc vào một thế giới lạ lùng, huyền ảo, với những nhân vật kỳ dị, khác thường.
Bác sĩ Kavir, giám đốc viện nghiên cứu Phạn Ngữ của chính phủ là một học giả nổi tiếng, có một kiến thức rộng và đã sống ở Rishikesh nhiều năm. Theo ông ta thì Rishikesh không còn là một thành phố của các bậc chân tu đạo hạnh như xưa mà là một nơi quy tụ rất nhiều thành phần hỗn tạp. Ða số là các đạo sĩ, tu sĩ nghèo nàn từ hình thức đến tinh thần. Họ góp nhặt vài phép tu, vài phương pháp dưỡng sinh, vài câu thần chú rồi kiếm ăn qua sự mê tín của dân chúng. Phần lớn những tu sĩ này đều là những kẻ thất bại ngoài đời, lười biếng, không chịu làm việc. Ðối với một quốc gia chậm tiến như Ấn Ðộ thì hình thức dễ nhất để có cơm ăn, áo mặc và một mái nhà là trở nên một tu sĩ, sống trên lòng sùng tín của dân chúng. Vì không có một tiêu chuẩn kiểm soát nào nên bất cứ ai cũng có thể trở thành tu sĩ, chỉ cần mặc áo tu sĩ, học thuộc vài câu kinh, vài hình thức lễ nghi, cúng tế là có thể tự xưng Ðạo Sĩ, Thánh Nhân được rồi. Chính các tu sĩ, đạo sĩ giả mạo này là những kẻ đã làm hoen ố danh dự tôn giáo, lợi dụng đức tin để làm chuyện sằng bậy, ích kỷ, cá nhân. Ðã thế, họ lại còn tụ tập phe nhóm, phong chức tước, ca tụng lẫn nhau và đả kích những tu sĩ không cùng phe nhóm.
Ðượn tin có phái đoàn ngoại quốc đến nghiên cứu nền minh triết cổ truyền, rất đông đạo sĩ, giáo sĩ tìm đến để tiết lộ những pháp môn huyền bí, dĩ nhiên với một giá biểu. Khi bị từ chối lập tức họ sụt giá như người mua bán. Một đạo sĩ đòi bán một cuốn sách bí truyền với giá 50 đồng tiền vàng, sau nhiều lần sụt giá y bằng lòng để lại cuốn sách với giá một bữa ăn. Một nhóm tu sĩ danh xưng trọng vọng, chức tước đầy người đòi đến thảo luận triết lý với phái đoàn. Khi nghe họ giới thiệu về thành tích và đạo quả đạt được, phái đoàn cực kỳ ngẫn ngơ vì toàn các bậc thần thánh gì đâu chứ không phải người. Ai cũng tu cả trăm năm đủ các phép thuật thần thông biến hóa. Tuy nhiên, khi một viên cảnh sát ở đâu bước vào thì các bậc "thần tiên" mặt mày lơ láo, kéo nhau bỏ chạy hết.
Quanh các chợ búa, có rất nhiều các tu sĩ khổ hạnh phô trương thân thể tàn phế bị hủy hoại như một công trình vĩ đại. Phái đoàn không hiểu họ có thể đạt đến điều gì ngoài ít xu lẻ mà khách bộ hành ném cho.
Một số các đạo sĩ sử dụng tà thuật công khai. Với một giá biểu, họ sẵn sàng làm bùa chú, thư phù, nguyền rủa một kẻ thù của bạn, đem đến cho bạn một cô gái đẹp hoặc giúp bạn thành công trên thương trường. Ðâu đâu cũng có các đạo sĩ rao bán bùa ngãi hoặc xưng là đấng này, đấng nọ. Một tu sĩ đến gặp phái đoàn xưng là hậu thân của đấng Krishna và đã từng là Phật Thích Ca trong một tiền kiếp. Bác sĩ Kavir nổi giận ra lệnh tống giam ngay tu sĩ này. Khi cảnh sát đến còng tay, tu sĩ thú nhận y chỉ là một học sinh thi rớt Tiểu Học, không sao kiếm được việc làm. Y đã lười biếng còn thích làm thầy kẻ khác nên làm gì một thời gian cũng gặp khó khăn. Sau cùng, y cạo đầu, mặc áo tu và tự xưng là đấng Krishna giáng thế, một số dân quê tin những lời tuyên bố của y. Họ quyên góp, xây cho y một ngôi đền. Y sống trên phẩm vật dâng cúng của tín đồ một cách ung dung chẳng tu hành gì hết. Ðã thế, y còn đòi hỏi này nọ, chê ngôi đền quá nhỏ bé không xứng với chức tước của y. Quen thói hống hách, lừa bịp, khi nghe tin có phái đoàn ngoại quốc đến thăm viếng, y dở trò bịp bợm để mong kiếm được món tiền nhỏ.
Lịch sử Ấn Ðộ cho thấy khi xưa Rishikesh là một thánh địa thiêng liêng, một nơi các tu sĩ thánh thiện đến để tu học. Sau này, khách hành hương quá đông, một số hành khất kéo nhau đến đây hành nghề. Thấy làm đạo sĩ coi bộ dễ kiếm ăn hơn nên nhiều hành khất đã "chuyển nghề" trở thành các đạo sư, giáo sĩ chuyên làm tiền các tín đồ ngây thơ nhẹ dạ.
Dĩ nhiên, Rishikesh vẫn còn các tu sĩ học thức, dành trọn đời cho việc đi tìm chân lý. Họ vẫn tu hành quanh đó không để ý đến sự kiện các tu sĩ giả lợi dụng sự có mặt của họ để mưu cầu lợi lộc. Ðó cũng là một nét đặc thù của nền văn hóa xứ này. Một người Âu Mỹ chắc chắn không thể chấp nhận sự kiện như thế, họ sẽ nhờ luật pháp can thiệp hoặc cảnh cáo những tu sĩ bất lương. Nhưng Ấn Giáo không có một tổ chức chặt chẽ như Thiên Chúa Giáo. Các giáo sĩ quan niệm có nhiều đường tu khác nhau, ai tu nấy chịu và những kẻ mạo danh, lợi dụng sẽ phải chịu hậu quả ở một kiếp sau.
Giáo sư Kavir cho biết theo thời gian, khi nền văn hoá suy đồi, cuộc sống trở nên khó khăn, các bậc tu sĩ thánh thiện mỗi ngày mỗi hiếm thì các đạo sĩ, thuật sĩ giả mạo nổi lên mỗi ngày một nhiều. Hàng ngàn người dốt nát, vô học đi lang thang với các chức tước rất lớn như Ðạo Sư (Guru), Giáo Sĩ (Yogi), Thánh Nhân (Bhagwan). Họ chỉ chờ những ngày hội, ngày lễ là xuất hiện quanh các đền, chùa lên mặt này nọ để quyên tiền. Dĩ nhiên họ là gáng nặng của xã hội vì chỉ thụ hưởng mà không làm lợi ích gì. Ðó cũng là lý do nhiều người Âu Mỹ đã coi thường gia tài văn hóa xứ Ấn. Xét cho cùng, một phần lỗi cũng là do sự tôn sùng tôn giáo quá mạnh của dân chúng. Họ không phân biệt một đạo sư tu hành chân chính, gìn giữ giới luật trang nghiêm với những kẻ bịp đời. Lòng sùng tín khiến họ trở nên ngây thơ, nhẹ dạ sẵn sàng làm theo sự mách bảo của các bậc tu hành. Một lý do nữa là sự ỷ lại vào sức mạnh thần quyền, đa số các tín đồ mải mê với sinh kế, không có thì giờ lo việc tinh thần nên họ ủy thác cho các giáo sĩ cầu nguyện giùm và đồng hóa việc giải thoát với việc trung thành vào một bậc giáo sĩ. Ða số các giáo sĩ lợi dụng vấn đề này tối đa, hứa hẹn sẽ chăm lo tinh thần giáo dân bằng cách cầu nguyện cho họ. Các giáo sĩ này tự hào đã tu hành đắc đạo, đã có thể nói chuyện trực tiếp với Thượng Ðế và là người trung gian giữa Trời và người. Họ sống trong các đền đài đẹp đẽ, hưởng thụ vật dân cúng và nhân danh Thượng Ðế để đòi hỏi này nọ. Người Á Châu bản tính không thích hoài nghi, chấp nhận việc các tu sĩ nói ra như ý muốn của Thượng Ðế và tuân theo triệt để. Cũng vì thế, các tài liệu tôn giáo Ấn Ðộ đã bị sửa đổi đi rất nhiều, không phân biệt điều có thật với những sự kiện huyền hoặc. Các tu sĩ tha hồ trích dẫn những câu nói bí ẩn và giảng ra theo ý nghĩa có lợi nhất cho họ. Xứ Ấn Ðộ phân biệt giai cấp rõ ràng, tu sĩ luôn đứng hàng đầu trên cả vua chúa, quý phái. Giai cấp tu sĩ không làn gì chỉ hưởng thụ và các giai cấp khác có bổn phận phải cung cấp các nhu cầu đòi hỏi cho tu sĩ. Cũng vì không làm gì, quá nhàn hạ, họ đâm ra chống báng, đả kích lẫn nhau. Mỗi người tự lập một giáo phái, môn phái, xưng hùng, xưng bá, giảng kinh điển theo quan niệm của mình từ cụ thể đến trừu tượng như Thời Gian Luận, Phương Hướng Luận, Ða Nguyên Luận... không ai chịu theo ai và còn tranh luận lung tung khiến các tín đồ không còn biết đâu mà tin.
Cũng vì xã hội nghèo đói, rối ren, tinh thần lại điên đảo bởi các tà thuyết nên từ bao năm nay, Ấn Ðộ không sao trở nên một quốc gia hùng cường, thịnh vượng như các xứ khác. Tuy thế, với gia tài minh triết lớn lao tiềm ẩn, vẫn có các bậc chân tu đạo hạnh, sống kín đáo để giữ cho ngọn lửa tâm linh luôn cháy sáng và vẫn có những người tha thiết mong cầu chân lý, sẵn sàng từ bỏ tất cả để đi tìm chân lý.
Sự kiện từ bỏ tất cả để đi tìm đạo cũng là một nét rất đặc biệt của Á Châu vì người Âu Mỹ khó có thể chấp nhận vấn đề từ bỏ của cải, vật chất để chạy theo một viễn ảnh trừu tượng, viễn vông, không thiết thực. Người Âu cả quyết rằng sự tìm kiếm chân lý là vô ích, hạnh phúc là hưởng thụ tất cả những gì cuộc đời có thể mang lại vì chết là hết. Tuy nhiên, vẫn có những người Âu đã tự đặt câu hỏi phải chăng chết là hết? Nếu như thế thì mục đích cuộc đời là gì? Tại sao chúng ta lại sinh ra để chết? Văn hóa Âu Tây đã không giải thích được vấn đề này một cách rốt ráo. Biết bao nhà triết học nổi danh đã nhứt óc về đề tài này nhưng đa số đều chỉ nói một cách quanh co, không đi đến một kết luận nào chắc chắn. Họ chỉ nói rằng có thể như thế này hay cũng có thể như thế khác mà thôi. Cho đến khi người Âu thực sự giao tiếp với người Á Châu thì họ bỗng bật ngửa vì tất cả những gì họ thắc mắc thì người Á đã có những câu trả lời từ nhiều ngàn năm trước.
Lịch sử đã ghi nhận có những người Âu đến viếng thăm Á Châu và say mê nền minh triết xứ này đến nỗi quên cả mục đích chính của chuyến đi. Ðiển hình là Ðại Ðế Alexandre xứ Hy Lạp, vị hoàng đế bách chiến, bách thắng đã chinh phục thế giới, dẹp tan Ai Cập, quét sạch Ba Tư mở rộng bờ cõi đến tận Ấn Ðộ Dương.
Khi đến Ấn Ðộ, ông là một kẻ chinh phục oai danh lừng lẫy nhưng khi trở về nước, ông đã trở nên một triết gia khiêm tốn, nhã nhặn. Hoàng Ðế Alexandre, học trò của hiền triết Aristotle đã bị các bậc hiền giả xứ Ấn chinh phục. Khi dẹp tan các đạo binh của Hoàng Ðế Ấn Ðộ, Alexandre cho mang tất cả những tướng chỉ huy xứ Ấn đến hạch hỏi. Ông Vua kiêu căng lớn tiếng "Thua trận như vậy, các người đã chịu phục ta chưa?"
Nếu là trường hợp các quốc gia khác, thì vua chúa đều quỳ mọp xin tha tội và xin thần phục trước sức mạnh của Hy Lạp. Nhà chỉ huy xứ Ấn đã dõng dạt trả lời: "Nhà ngươi chỉ là một kẻ vũ phu, tàn ác làm sao ta phục cho được. Ngươi có thể thắng bằng quân sự nhưng cai trị thế nào nổi dân của ta?" Alexandre nổi giận: "Ta đã cai trị toàn thể thế giới, có nước nào không phục tài ta, nơi nào làm phản ta giết trọn cả nước, ngươi không thấy các đại cường quốc như Ai Cập, Ba Tư còn xin thần phục huống chi Ấn Ðộ yếu đuối?" Vị chỉ huy xứ Ấn bật cười: "Chinh phục bằng sức mạnh quân sự thì dễ chứ chinh phục nhân tâm còn khó gấp trăm ngàn lần, một kẻ vũ phu như ngươi làm sao có thể cai trị được Ấn Ðộ?" Câu nói bất ngờ làm Ðại Ðế Alexadre giựt mình. Nên nhớ, ông là một hoàng đế văn võ toàn tài chứ không phải một kẻ chỉ ỷ vào sức mạnh. Từ nhỏ, ông đã được giáo dục bởi các bậc hiền triết Hy Lạp và năm 14 tuổi đã đem quân chinh phạt khắp Ðịa Trung Hải tạo các chiến công hiển hách. Ông theo học với triết gia Aristotle và lúc nào cũng có vài chục hiền giả chung quanh để thảo luận. Câu nói của vị tướng lãnh chỉ huy xứ Ấn làm ông suy nghĩ. Thay vì ra lệnh giết ngay viên tướng này để làm gương, ông đã không giận dữ lại còn mang ngay đề tài chinh phục nhân tâm ra thảo luận với y. Trong suốt lịch sử Âu Châu, chỉ có Alexandre là hoàng đế duy nhất đã tranh luận ôn tồn cho đến khi kẻ thù kính phục mới thôi.
Chi tiết cuộc thảo luận này ra sao không thấy lịch sử ghi chép nhưng chỉ ít lâu sau, Hoàng Ðế Alexandre đã cho mời các bậc hiền triết xứ Ấn đến thảo luận với các học giả Hy Lạp vẫn tháp tùng theo đoàn quân viễn chinh. Chỉ một thời gian ngắn, Alexandre nhận thấy các triết gia Hy Lạp không thể sánh kịp với các hiền giả Ấn Ðộ. Nhà vua bèn đổi thái độ, lấy lễ nghĩa đối xử với các vị này. Thay vì cai trị bằng sức mạnh như vẫn làm với các quốc gia khác, ông ghi nhận những lời khuyên của các bậc hiền triết, tôn trọng quyền lợi dân chúng xứ này.
Ðoàn quân viễn chinh ngưng lại không đi sâu vào nội địa xứ Ấn để ông có thì giờ học hỏi, đàm đạo với các bậc thánh nhân, hiền triết. Các cuộc thảo luận nhiều khi kéo dài đến cả tuần lễ, có khi cả tháng. Sau đó, ông đã ra lệnh rút binh trở về Hy Lạp vì giấc mộng bá vương không còn nữa. Ông dự định sẽ cải tổ lại guồng máy cai trị thế giới theo gương Ấn Ðộ. Tiếc thay, nhà vua lại chết sớm khi chưa đầy 30 tuổi. Một sử gia đã than: Nếu Alexandre sống lâu thêm ít năm nữa thì biết đâu lịch sử Tây Phương đã khác hẳn.
Trong các vị hiền triết nổi danh, Ramakrisna được coi như một vị Thánh của Ấn Giáo. Danh tiếng ông này đã vang sang tận Âu Châu. Phái đoàn tìm đến đức Mahayasa, môn đệ của ông này đang tu ở một ngôi đền gần đó.
"Có chứ, vì khi thức dậy tôi thấy tôi đâu thay đổi gì."
"Và rồi khi anh chết?"
"Thì tôi cũng còn là nó."
"Vậy tại sao khi người ta hỏa thiêu nó, nó không nói nó không chịu đi và muốn ở lại nhà?"
Khi đó người này ý thức rằng mình đã sai và đáp rằng:
"Tôi không phải là thể xác này mà là sự sống trong nó."
"Anh hãy suy gẫm kỹ điều này. Hồi nẫy anh nói rằng anh là thể xác này bây giờ anh lại nói rằng không phải. Cho mình là xác thân này là một lỗi lầm nguyên thủy. Bao giờ sự sai lầm này còn, dù anh nói Thượng Ðế có sắc tướng hay không cũng không ăn thua gì. Khi sự sai lầm được đánh tan thì mọi việc sẽ sáng tỏ. Tóm lại, theo Ramakrishna thì nguyên nhân của sợ hãi, dục vọng, ham muốn là do sai lầm đầu tiên: tự cho mình là xác thân này vì sợ hãi hay ham muốn đều bắt đầu từ thể xác này. Dĩ nhiên, rất nhiều người cũng đồng ý như thế và tin rằng con gười không phải thể xác mà là một sự sống trường cửu. Sách vở cũng nói như thế rất nhiều nhưng trong đời sống thực tế, họ có làm gì khác đâu. Lúc đầu họ nghĩ rằng nhờ kiến thức thu tập, hiểu biết các chân lý cao siêu họ sẽ khác người thường nhưng tại sao họ vẫn hành động y như họ là thể xác nầy vậy? Nếu xác thân họ nhỏ bé, họ cho rằng mình bé nhỏ. Nếu xác thân họ to lớn, đẹp đẽ họ cho rằng mình lớn đẹp. Nếu xác thân họ ốm đau, họ cho rằng mình bệnh hoạn. Nếu tư tưởng họ phong phú, họ cho rằng mình thông minh... Tóm lại, sự sợ hãi và dục vọng vẫn y như xưa, có thể lại còn gia tăng hơn vì họ hãnh diện về mình hiều hơn xưa. Nói một cách khác, sở dĩ họ làm thế vì chưa chứng nghiệm được con người thật của mình, sự sai lầm nguyên thủy vẫn còn tác động mạnh mẽ nơi họ. Kiến thức của họ chưa tạo một sự biến chuyển thật sự...
Ramakrishna đã dạy rằng kiến thức (về tâm linh) thu tập qua sách vở thường tai hại hơn là một người thất học, dốt nát. Những người kiến văn quảng bác, lịch thiệp, bằng cấp, danh vọng thường ích kỷ lại còn ngạo mạn, họ cho rằng mình biết nhiều, hiểu nhiều và không chịu tìm hiểu, thực hành đào sâu vào thêm nữa. Ðó là sự hiểu biết hời hợt qua sách vở chứ đâu đâu phải là một chứng nghiệm nội tâm. Sách vở chỉ là la bàn hướng dẫn chứ đâu phải minh triết thật sự. Sự thu tập kiến thức kiểu này tạo nên trình trạng hỗn độn trong triết lý và thần học. Các triết gia và nhà thần học đã thảo luận không ngừng về những vấn đề khó khăn như nguyên nhân đầu tiên, sự thật cuối cùng, bản chất thời gian, định mệnh con người, tự do, giải thoát v.v... và chả đạt đến một kết qủa gì hết. Các bậc hiền triết đứng bên ngoài cuộc thảo luận đó vì họ có lối giải quyết riêng, trái với các giải pháp trí thức. Thay vì thảo luận họ cố khám phá lấy sự thật và khi tìm ra sự thật, các vấn đề trên sẽ đương nhiên được giải quyết."
Nói đến đây Ðức Mahayasa lặng yên chìm đắm trong một không khí êm đềm nào đó. Giáo sư Evanz-Wentz cố gắng:
"Nhưng con người không thể sống bằng đức tin mà còn phải thỏa mãn lý trí nữa chứ, đối với những người thiên về lý trí, không biết ngài nghĩ sao?"
Mahayasa mỉm cười:
"Nếu thầy tôi Ramakrishna còn sống có lẽ ngài sẽ khuyên ông nên cầu nguyện."
"Tại sao như vậy?"
"Cầu nguyện là phương tiện cuối cùng của con người. Khi nào lý luận tỏ ra bất lực thì sự cầu nguyện sẽ bổ sung, phù trì, cứu độ."
"Nhưng nếu tôi không thể cầu nguyện thì phải làm sao?"
Ðức Mahayasa nhìn giáo sư Wentz, ánh mắt ngài long lanh một niềm ưu ái:
"Ông nên tiếp xúc với các bậc chân tu, các vị này sẽ hướng dẫn tâm hồn ông lên cõi thiêng liêng và thức động các khả năng thiêng liêng nhất của ông. Có lẽ ông cần một vị thầy."