Hành Trình Về Phương Đông

Chương 9 : Hành trình về Phương Ðông

Ngày đăng: 13:45 19/04/20


Hamoud mỉm cười:



"Tuy cõi trần hư ảo nhưng nó có những lợi ích của nó vì con người chỉ có thể tìm hiểu, phát triển xuyên qua các rung động thô thiển này thôi. Cõi trần có các bài học mà ta không tìm thấy ở đâu được. Chính các bậc chân tiên, Bồ Tát trước khi đắc quả vị đều phải chuyển kiếp xuống trần, làm các công việc vĩ đại như một thử thách cuối cùng. Muốn khai mở quyền năng, con người phải tiếp nhận các bài học ở cõi trần mà thôi, nhờ học hỏi những bài học này họ mới trở nên nhạy cảm với các rung động cõi trên."



"Ông muốn nói sự nhạy cảm thế nào?"



"Sự mở mang trí tuệ giống như một máy thu thanh (Radio) và các rung động ví như các tần sóng. Một người không hiểu biết ví như máy thu thanh không bắt trúng đài, không thay đổi băng tần. Họ sinh ra sao thì chết cũng vậy, chả học được điều gì vì như máy không bắt trúng đài chỉ kêu rè rè. Một người hiểu biết là người biết thay đổi con người của mình để bắt trúng những làn sóng, dĩ nhiên có nhiều làn sóng, băng tầng khác nhau và con người sẽ bị tràn ngập bởi các làn sóng này cho đến khi họ điều hòa, phân biệt điều hay, lễ dở để chọn những băng tầng thích hợp. Khi đó họ bắt trúng những đài phát thanh, nghe được điệu nhạc họ muốn. Huyền âm của Thượng Ðế lúc nào cũng vang lừng vũ trụ cho những ai muốn nghe, biết chuyển tâm thức để nghe, biết thay đổi tâm hồn để bắt được làn sóng thanh cao, tế nhị đó."



Mọi người gật đầu thán phục vị pháp sư Ai Cập đã dùng những thí dụ cụ thể để giải thích một điều phức tạp. Giáo sư Mortimer thắc mắc:



"Ngoài việc khai mở giác quan để nghiên cứu cõi âm ông còn làm gì nữa?"



"Việc nghiên cứu sẽ không có ý nghĩa gì nếu ta chỉ quan sát như một khách bàng quang, đứng ngoài nhìn ngắm. Con người cần học hỏi những điều gì xảy ra khi họ từ trần để thay đổi, thích hợp với cuộc sống mới, không những cho họ mà còn cho những người thân. Càng hiểu biết bên kia cửa Tử họ càng dễ dàng hướng dẫn các vong linh khác."



"Nói một cách khác ông hay giúp đỡ những vong linh vừa từ trần?"



"Chính thế, đó là công việc của tôi. Phần lớn người chết thường xúc động và không chấp nhận rằng họ đã chết, họ muốn bám víu lấy cõi trần và trở nên các loài ma vất vưởng. Công việc của tôi là trấn an họ, giải thích cho họ rằng ở cõi âm nếu muốn siêu thoát cần thay đổi trọn vẹn lối sống. Việc này dĩ nhiên rất khó vì các vong linh không chịu nghe, hơn nữa nhiều người luyến tiếc cõi trần vì họ có những việc chưa giải quyết xong, tâm hồn họ chưa được an để siêu thoát. Vì thế sự hiện diện của một người còn sống như tôi rất hữu ích, tôi có thể giúp họ hoàn tất các tâm nguyện để họ siêu thoát..."



"Công việc này có kết quả gì không?"



"Ðây là một việc hết sức khó khăn nên tôi phải kết thân với một số bạn bè bên cõi âm. Nếu vong linh u mê nhất định không nghe thì tôi phải nhờ những bạn bè, người thân của họ thuyết phục, giúp đỡ. Thí dụ như một vong linh bị chết trong một trận hỏa hoạn tại Luân-Ðôn. Y bị kẹt trong tòa nhà ba từng, không sao thoát nên chết ngộp bởi khói. Y không tin mình đã chết nên thần thức vẫn vùng vẫy, tìm chỗ thoát thân. Tôi khuyên bảo nhưng y quá lo sợ chết cháy nên không chịu tin lời tôi. Sau tôi phải nhờ mẹ y đã từ trần nhiều năm trước đến khuyên bảo thì y mới chấp nhận và siêu thoát."



"Ông muốn nói rằng thân quyến có thể làm việc đó dù họ chết đã lâu?"



"Dĩ nhiên, sự liên hệ giữa con người với nhau đâu phải tình cờ mà do nhiều duyên nghiệp từ trước. Nếu sợi dây thân ái vẫn còn thì dù qua đời họ vẫn để ý lưu tâm đến những người họ yêu mến nhau. Dù đã siêu thoát lên cảnh giới trên nhưng họ vẫn sẵn sàng trở lại khuyên bảo, giúp đỡ con cháu của họ."



"Như vậy sau khi chết ta có thể gặp lại cha mẹ, ông bà, họ hàng thân thích hay sao?"



"Dĩ nhiên, như tôi vẫn nói con người khi sống ra sao thì chết vẫn vậy, đâu có đổi thay gì nhiều. Nếu tình cảm vẫn còn thì họ vẫn tìm đến gặp nhau là thường. Thật ra nếu ta xem sự chết như đi du lịch qua một thế giới mới, quang đãng, sáng sủa hơn thì chúng ta sẽ không có cảm tưởng như xa người quá cố. Sự thật là không có điều gì chia cách linh hồn cả, khi ta yêu mến ai bằng những rung động chân thành, ta yêu mến họ qua linh hồn của họ chứ đâu phải chỉ xác thân. Xác tuy hư hại nhưng hồn họ vẫn ở quanh ta, tuy ta không thấy họ nhưng họ vẫn cảm xúc được tình thương của ta. Họ còn biết các đau buồn, cảm giác của ta vì họ đọc được tư tưởng. Dĩ nhiên, nếu họ vẫn theo dõi thì khi ta chết đi, họ sẽ đón tiếp để trấn an ta là đằng khác. Ðây là một vấn đề cần được lãnh hội cẩn thận vì khi hiểu biết ta sẽ không còn sợ hãi, ta chấp nhận sự chết như một việc hiển nhiên. Bên kia cửa tử cũng như cõi trần, luật thiên nhiên luôn luôn biểu hiện và hết sức công bằng."



"Làm sao chúng tôi có thể biết chắc rằng khi chết ta sẽ gặp người thân?"



"Như tôi đã trình bày, có bảy cảnh ở cõi Trung giới và sự thức tỉnh ở cảnh nào hoàn toàn tùy theo tâm thức con người rung động với nhịp rung của cảnh đó. Con người chỉ có thể tiếp xúc với vong linh ở cảnh đó hoặc cảnh thấp hơn mà thôi. Ða số những người qua đời đã lâu, thể Vía đã được thanh lọc nên thường sống ở cảnh giới cao hơn, do đó họ có thể tiếp xúc với những người ở cảnh giới thấp hơn nếu họ muốn. Ngược lại những kẻ thức tỉnh ở cảnh giới thấp rất ít khi biết đến các cảnh giới cao hơn, những kẻ thức tỉnh ở cảnh thứ bảy hay thứ sáu chỉ muốn tìm về cõi trần mà thôi ít khi ý thức cảnh giới khác. Có nhiều vong linh sau khi đã lên đến cảnh giới cao lại tìm về những cảnh thấp hơn, không phải họ ham mê gì cõi này nhưng vì lòng thương người, bác ái mà họ muốn giúp đỡ những người cùng cảnh ngộ, những kẻ lạc lỏng, bơ vơ không ý thức gì."



Hamoud im lặng một lúc rồi thong thả:



"Cứu trợ, giúp đỡ các vong linh bên kia cửa tử là một điều hết sức cần thiết vì người chết thì nhiều mà người hiểu biết lại chẳng có là bao nhiêu..."



"Nhưng đâu phải ai cũng làm được việc này, phải có các quang năng đặc biệt như ông hay đợi lúc chết mới giúp đỡ được chứ..."



Hamoud lắc đầu:



"Không phải khi từ trần mới làm được việc này, khi còn sống ta vẫn có thể làm được mà cũng không cần phải khai mở quang năng nào cả. Bất cứ ai biết suy nghĩ đều có thể làm được. Các ông nên hiểu rằng khi ngủ, thể Vía của ta được tự do có thể hoạt động bên cõi âm. Nếu ta tập trung tư tưởng trước khi ngủ vào một sự giúp đỡ, an ủi nhằm mục đích hướng dẫn, cứu trợ tất cả mọi người không phân biệt thì điều này sẽ được thực hiện."



"Chỉ thế thôi ư? Như vậy ai làm chả được."



"Dĩ nhiên, điều này không nguy hiểm gì hết vì tư tưởng có một sức mạnh thần giao đặc biệt và có một mãnh lực phi thường ở cõi âm. Nếu ta tập làm những việc này khi còn sống, ta sẽ không bỡ ngỡ, ngạc nhiên khi qua cõi bên kia vì ta đã quen thuộc với nó rồi. Ta còn gặp những người nhờ tư tưởng của ta mà được giúp đỡ là đằng khác, dĩ nhiên họ sẽ đón tiếp ta nồng hậu và từ đó sẽ tiếp tục làm những công việc này..."



"Làm sao có thể dễ dàng như thế được?..."



Hamoud mỉm cười:



"Nghe thì dễ thật nhưng nó đòi hỏi một sự quyết tâm. Thứ nhất việc làm của ta phải bất vụ lợi, vị tha, vô tư vì cõi âm là cõi tư tưởng. Nếu ta có ý định mưu đồ một việc gì, những người khác biết ngay và hậu quả lại chưa biết thế nào mà lượng được. Thứ hai, đa số các vong linh đều u mê, ngoan cố rất khó thuyết phục vì các nghiệp quả trói buộc hoặc lưu luyến cõi trần vì con cháu khóc than, thương tiếc quá họ đâm ra xúc động khó siêu thoát. Do đó, công việc này đòi hỏi sự tế nhị, khéo léo và một tâm hồn an tĩnh, không bối rối, xúc động. Nhưng khi ta đã phát tâm thì tư tưởng này sẽ là một khí cụ rất tốt giúp đỡ ta rất nhiều. Theo ý kiến của tôi thì việc có một kiến thức rộng rãi về cõi âm là căn bản đầu tiên..."



Giáo sư Allen lắc đầu:



"Nếu nói rằng khi ngủ ta qua cõi âm, tại sao tôi không ý thức một tí gì cả? Phải có một bằng chứng nào rõ rệt mới tin như vậy được."



"Các ông nên hiểu về sự cấu tạo của con người: Trong lúc thức tỉnh, thể Vía là cây cầu cho tâm thức. Mọi sự va chạm, rung động, cảm xúc bên ngoài do hệ thần kinh giao cảm được thể Vía chuyển vào tâm thức sau đó mới ghi nhận ở khối óc. Bằng chứng là ta suy nghĩ trước khi ta hành động có phải không? Nguyên nhân giấc ngủ là sự mệt mỏi của thể xác, nó cần phục hồi sức khỏe nên nằm yên nhưng thể Vía lại khác, nó vẫn hoạt động vì bằng chứng là đôi khi ngủ say nhưng ta vẫn ý thức mọi việc xảy ra chung quanh có đúng như thế không? Thể Vía luôn rung động để đáp ứng với hoàn cảnh chung quanh, vì tính chất này nó rất mẫn cảm với các rung động của bản năng, ham muốn, dục vọng. Các tính xấu như giận hờn, oán ghét chẳng qua là sự cô đọng của tư tưởng mà thôi. Sự cô đọng này tạo thành một lớp vỏ bao trùm lên thể Vía và ảnh hưởng của nó. Do đó, tính tình con người chỉ là một thói quen của tư tưởng. Như tôi đã trình bày, tư tưởng thanh cao cũng như hèn hạ đều bị thu hút vào thể vía và trực tiếp ảnh hưởng đến tình cảm con người. Bằng chứng là một người có tâm hồn thanh khiết không thể hợp với những nơi ồn ào náo nhiệt, ngược lại kẻ có tâm hồn náo động không thể chịu nơi vắng vẻ, êm đềm. Có người tự hỏi tại sao họ không thể ngồi yên một chỗ, không thể tu tập các pháp môn thiền quán? Ấy vì thể Vía họ lao chao, muốn động. Họ cần biết cách chủ trị tình cảm, thanh lọc thể vía. Các món đồ ăn nặng trọc như thịt cá, rượu các chất kích thích cũng đem vào thể Vía các đối phần nặng trọc. Người tu phải triệt để từ bỏ các món ăn này vì nó rất có hại cho việc tham thiền, quán tưởng. Thể xác và thể vía liên lạc với nhau qua bảy trung tâm giao điểm sinh lực gọi là Luân Xa, tại đây có một tấm màn cấu tạo bẳng nguyên tử cõi trần để ngăn chặn ảnh hưởng cõi âm. Vì thế, ký ức và sinh hoạt lúc ngủ không chuyển sang khối óc vật chất tuy nhiên, đôi khi ngủ dậy ta vẫn mường tượng có một cái gì mà không sao nhớ được. Ðối với một người bình thường thì luân xa không thức động nên tấm màn này khép chặt nhưng rượu, thịt, các chất kích thích có thể phá hoại tấm màn này khiến nó bị rách và ảnh hưởng cõi âm có thể chuyển qua cõi trần khiến y bị điên khùng hay rối loạn hệ thần kinh. Có khi cá nhân mất tự chủ, bị các loài ma quỷ nhập vào sai khiến."



Giáo sư Allen lên tiếng:



"Những điều ông trình bày rất lạ lùng, nhưng cũng có lý. Tuy nhiên, theo sự hiểu biết của chúng tôi thì khoa học không thể chứng minh điều này. Liệu có cách nào khiến chúng tôi cũng khai mở các quang năng để nghiên cứu cõi giới vô hình như ông không?"


"Ðó là việc riêng của chúng tôi, anh biết gì mà nói..."



Viên lãnh sự nhếch miệng cười nhạt:



"Ðó không phải việc riêng của các ông nữa, nó liên quan đến danh dự Hoàng Gia, danh dự Oxford. Các ông nên biết tôi cũng xuất thân từ Oxford..."



Giáo sư Oliver buột miệng:



"Nếu anh xuất thân từ Oxford thì anh phải biết cuộc khảo cứu này sẽ làm rạng danh đại học của chúng ta, một ngày nào đó người ta sẽ nói rằng chính Oxford đã tiền phong trong việc khảo cứu các hiện tượng huyền bí, các môn Yoga..."



"Yoga? Yoga là cái gì? Ông muốn nói đến một loài thú nào chăng?"



Giáo sư Oliver há hốc miệng không nói thêm lời nào, một sự ngờ nghệch như vậy có thể tha thứ được đối với một công dân tầm thường, vô học, chỉ quanh quẩn nơi xó nhà, chưa hề ra khỏi tầm chuông nhà thờ Westminster... Ðằng này y là một lãnh sự, đại diện cho Hoàng Gia, xuất thân từ Oxford và đã sống ở Ấn Ðộ hơn 6 năm nay. Viên Lãnh sự xem xét thông hành và cho biết Phái đoàn phải rời Ấn Ðộ ngay trong tuần lễ sau.



*******



Nhật ký của giáo sư Spalding:



Trong khi mọi người trở về khách sạn, chờ đợi ngày lên tàu trở về Luân Ðôn. Tôi vẫn linh cảm sẽ có một chuyện gì xảy ra, tôi lang thang trong khu phố Bombay đông đúc, đầu óc mơ hồ, không biết phải làm gì. Tôi cố ôn lại những việc xảy ra trong vòng nửa năm qua. Quả thế, từ hôm thất vọng đi lang thang như thế này trong thành Benares, tôi gặp một người Ấn cao lớn, khác thường đã chuyển giao thông điệp của một Chân Sư. Từ đó khắp nơi, phái đoàn luôn luôn được che chở và may mắn gặp gỡ những người dành trọn đời cho việc đi tìm chân lý, những người đã thắng đoạt thiên nhiên, đã chinh phục được các sức mạnh vô hình trong trời đất, đã có quyền năng phi thường... Ðúng như lời người đó nói, sự nghiên cứu đã vén mở được những điều phái đoàn muốn tìm kiếm nhưng mọi người vẫn chưa hài lòng. Chúng tôi ao ước được gặp vị chân sư bí mật, một người mà tôi có cảm giác đã quen, đã biết từ một tiềm thức xa xôi nào. Trong giây phút đó, tôi bỗng có một ý tưởng lạ lùng, bằng tất cả sức mạnh tư tưởng tôi ao ước vị chân sư bí mật này hãy giúp đỡ chúng tôi, hay cho chúng tôi gặp mặt.



Ðang đắm chìm trong dòng tư tưởng triền miên bỗng tôi giật mình, một cảm giác lạ lùng như một luồng điện chạy dọc theo xương sống khiến tôi mở choàng mắt ra:



Dưới chân một cây cổ thụ cao lớn, cành lá xum xuê, một người Ấn Ðộ khuôn mặt phương phi, quai hàm rộng, trán cao, một con mắt tinh anh có khả năng thu hút người khác. Còn ai vào đây nữa, chính người Ấn lúc đầu mà tôi đã gặp tại thành Benares, chính người này đã mang thông điệp đầu tiên cho phái đoàn. Tôi vội vã chạy đến mừng như gặp bạn cố tri. Người Ấn mỉm cười:



"Thế nào? Việc nghiên cứu của các ông tốt đẹp chứ? Tôi hy vọng Brahmananda, Sudeih Babu, Mahasaya, Harishinanda, Hamoud El Sari... Không làm các ông thất vọng."



Tôi há hốc miệng, không nói được câu nào. Tại sao người này dường như biết tất cả? Người Ấn mỉm cười:



"Bạn mến, cách đây nửa năm bạn có hỏi tôi rằng các bậc chân sư có thật hay không? Nếu có thật tại sao các ngài không xuất hiện dậy dỗ quần chúng? Sự ẩn dật đâu có lợi ích gì? Lúc đó, trong lòng bạn thật sự không lấy gì tin tưởng về sự hiện hữu của những cá nhân đã tiến xa trên con đường đạo. Tôi đã trả lời rằng, vì không biết rõ các ngài nên quan niệm thông thường không thể xét đoán các ngài một cách đứng đắn. Thực ra các bậc toàn thiện luôn luôn xuất hiện để giúp đỡ thế gian một cách lặng lẽ, âm thầm. Ða số mọi người tin rằng các ngài phải hiện ra trong hào quang rực rỡ, với các phép thần thông biến cõi trần đau khổ này thành một cõi thiên đàng. Ðiều này sẽ không bao giờ xảy ra...



Khi đó bạn không hoàn toàn đồng ý, là một người Công Giáo bạn vẫn nghĩ rằng đức "Christ" vẫn hứa sẽ trở lại để cứu rỗi tất cả... Thực ra đức "Christ" (Chúa) có bao giờ rời bỏ chúng ta đâu, lúc nào ngài chả luôn luôn bên cạnh ta, giúp đỡ chúng ta. Sự tin tưởng rằng ngài sẽ trở về trong một vầng hào quang sáng chói là một điều không đúng. Chúng ta chỉ quen tìm kiếm Thượng Ðế bên ngoài như một đấng toàn năng có thể giúp ta thỏa mãn những điều mong ước chứ không chịu tìm kiếm ở nội tâm, nơi ngài luôn ngự trị. Tôi hy vọng sự tiếp xúc với các đạo sĩ trong thời gian qua sẽ giúp bạn một căn bản vững chắc, một niềm tin mãnh liệt để có thể tiếp tục việc nghiên cứu.



Tôi kinh ngạc đến sững người, không những người Ấn này biết rõ tất cả mà dường như còn đọc được tư tưởng người khác. Người Ấn mỉm cười hiểu ý:



"Các bạn đã được chỉ dẫn về khoa Yoga, các phương pháp dưỡng sinh, cõi giới vô hình, môn chiêm tinh bí truyền, các luật vũ trụ, quan niệm về Phàm Ngã và Chân Ngã... Các bạn đã tỏ ra say mê, thích thú vì đó là điều khao khát bấy lâu nay, có đúng không?



"Tại sao... Tại sao ông lại biết rõ như vậy?



Người Ấn dịu dàng:



"Vì tôi là người được chỉ thị phải giúp đỡ các bạn. Chính tôi đã theo dõi tư tưởng các bạn từ khi phái đoàn vừa đặt chân đến xứ này. Tôi hết sức thông cảm sự bất mãn, buồn phiền, chán nản suốt hai năm đầu khi các bạn đến thăm các đền đài nguy nga, tiếp xúc với các đạo sĩ nổi tiếng nhưng không học hỏi được điều gì mới lạ. Thay vì gặp các bậc hiền triết, các bạn gặp toàn những kẻ bịp đời, những người chức tước, địa vị thật cao mà công phu tu hành, trì giới lại thật thấp. Thay vì gặp những đạo sư có kinh nghiệm tâm linh, các bạn gặp những tu sĩ miệng nói thao thao như nước chảy mà chả biết mình đang nói gì, hình như chân lý cao siêu mà y trích dẫn từ kinh điển không dính dáng gì đến đời sống an nhàn, sung sướng trong các đền chùa đồ sộ của y cả. Tất cả đều là những thử thách cho sự nghiên cứu của các bạn. Một chân lý có giá trị thực sự phải chịu nổi các thử thách của thời gian. Cuộc đi tìm chân lý cũng thế, nó đòi hỏi một sự cố gắng và một tinh thần khoa học, suy xét để gạt bỏ các điều mê tín, các thành kiến. Các bạn đã xứng đáng được truyền dạy những chân lý cao đẹp đó, tôi mới đến gặp bạn tại Benares và chuyển giao thông điệp của một vị chân sư. Nhờ thế các bạn mới thực sự gặp được những người tiêu biểu cho nền minh triết của Á Châu. Tuy nhiên, như tôi đã nói nếu bạn muốn đi xa hơn để gặp các bậc chân sư thì lại khác..."



"Ông tin rằng chúng tôi có thể gặp các ngài?"



"Dĩ nhiên, nếu các bạn chọn con đường này, nó sẽ là một cuộc hành trình khác hẳn cuộc hành trình vừa qua. Các bạn sẽ không thể đứng bên ngoài mà nhìn vào, để nghiên cứu, ghi nhận như một khách bàng quang.



Cuộc hành trình này phải là một kinh nghiệm cá nhân. Một sự hiểu biết mà không do mình tìm ra, kinh nghiệm ra chỉ là một hiểu biết hời hợt, nông cạn.



Một sự hiểu biết do người khác bằng bất cứ phương tiện nào mang lại cũng chỉ là kinh nghiệm của người đó. Ta không thể trông đợi một chân lý đến từ bên ngoài mà phải biết thế nào là đủ để dừng lại, để trở về. Ði xa tức là trở về, đó mới là con đường đứng đắn.



Cuộc hành trình này không như lần trước "đi ra ngoài", tiếp xúc với các đạo sư, ghi nhận những tinh hoa, soạn thảo tài liệu mà phải là một cuộc hành trình "trở về", một cuộc hành trình "về" phương đông. Các bạn không thể nhân danh phái đoàn đi quan sát, ghi nhận nữa mà phải là một nhóm người đi tìm chân lý và sống với chân lý đã học được. Trong cuộc hành trình này, các bạn sẽ không được công nhận bởi các đại học, dư luận quần chúng. Danh vọng của bạn có thể bị xuyên tạc, điều bạn học hỏi có thể bị chế nhạo, nghi ngờ. Các bạn sẽ hết sức cô đơn, nản lòng, thối chí, có lúc bạn sẽ sợ hãi và đâm ra nghi ngờ những điều đã xảy ra.



Tóm lại, các bạn cần suy nghĩ cho kỹ trước khi quyết định. Nếu trở về Luân Ðôn một thời gian, đợi dư luận lắng dịu, các bạn có thể công bố những điều ghi nhận, nhưng mọi người có tin hay không lại là chuyện khác. Nếu muốn tiếp tục, các bạn phải rời bỏ tất cả để làm một cuộc hành trình lên Tuyết Sơn. Ðây chính là giây phút quyết định."



"Nếu chúng tôi muốn tiếp tục cuộc hành trình thì phải làm thế nào?"



Người Ấn mỉm cười:



"Tại sao bạn cứ hỏi tôi phải làm gì? Tôi phải làm thế nào? Nếu muốn các bạn chỉ việc lên đường, có thế thôi."



Ðịnh mệnh con người luôn luôn có những thay đổi lớn, mặc dù không thấy rõ nhưng chúng ta vẫn vô tình tiến đến mục tiêu đã vạch sẵn. Không đầy hai tuần lễ sau, chúng tôi đã đứng trong làng Potar, ngay sát chân dẫy Hy Mã Lạp Sơn hùng vĩ. Chúng tôi đã bỏ lại tất cả, danh vọng, địa vị, đoạn tuyệt với thành kiến, tự ái cố hữu của người Tây Phương.



Cuộc hành trình về phương Ðông của chúng tôi bắt đầu...