Hảo Nữ Trung Hoa

Chương 4 : Người đàn bà nhặt rác

Ngày đăng: 09:54 18/04/20


Bên cạnh tường bao quanh đài phát thanh, cách chỗ phòng bảo vệ không xa lắm, có một dãy lều lụp xụp đắp điếm bằng những mảnh kim loại, giấy dầu và túi nilon. Những người đàn bà ở đó sống bằng nghề nhặt rác đem bán. Tôi thường tự hỏi không biết họ từ đâu tới, điều gì đã đưa họ đến với nhau, và kết cục của họ ở đó rồi sẽ ra sao. Dù sao, họ cũng khá khôn ngoan khi chọn một địa điểm an toàn cho những căn lều của mình, cận kề với những người lính gác ở phía bên kia bức tường.



Trong dãy lều thưa thớt đó có cái lều bé nhất nổi bật hẳn lên. Vật liệu của nó không có gì khác, nhưng được nó được sắp xếp khá cẩn thận. Những bức vách bằng mảnh kim loại được sơn màu ráng chiều rực rỡ, và giấy dầu được cuộn lại trông giống như cái tháp nhỏ trên lâu đài. Có ba cái cửa sổ nhỏ làm bằng túi nilon đỏ, vàng và xanh lam, còn cửa ra vào làm bằng các tông nhiều màu xen lẫn những tấm nhựa, che gió chắn mưa khá tốt. Tôi thấy xúc động trước sự cẩn thận và tỉ mẩn rõ rệt trong việc dựng lên chiếc lều mỏng manh này, và chợt nhận ra hình ảnh mấy chiếc chuông gió làm từ những mảnh thủy tinh vỡ nhẹ nhàng va vào nhau leng keng trên cái cửa thật hết sức thương tâm.



Chủ nhân lâu đài phế liệu này là một người đàn bà gầy guộc yếu đuối, đã ngoài năm mươi. Không chỉ cái lều của bà độc nhất vô nhị; ngay cả bà cũng khác hẳn những người đàn bà nhặt rác khác về ngoại hình. Hầu hết bọn họ đều đầu tóc bù xù, mặt mũi nhem nhuốc và rách rưới thảm hại, nhưng người đàn bà này luôn giữ cho mình gọn gàng, và những bộ quần áo sờn cũ của bà được giữ gìn tuyệt đối sạch sẽ và vá rất khéo. Nếu không có chiếc túi bà mang theo để thu gom phế thải, người ta sẽ không hình dung nổi bà là một người nhặt rác. Có vẻ như người đàn bà này sống khá khép mình.



Khi tôi kể với các đồng nghiệp về điều tôi quan sát được ở người đàn bà nhặt rác đó, thì tất cả họ, không muốn tôi cảm thấy mình là người duy nhất, người nọ nối tiếp người kia bèn nói rằng họ cũng đã chú ý đến bà ta. Có người thậm chí còn bảo tôi rằng mấy phụ nữ nhặt rác đó chính là thính giả nhiệt thành của chương trình của tôi. Tôi không rõ liệu có phải họ đang giễu cợt mình hay không nữa.



Đứng ngoài cuộc, Lý Đại, phóng viên mảng xã hội, gõ bút lên mặt bàn đánh cộp, dấu hiệu cho thấy ông sắp sửa thuyết giảng cho các đồng nghiệp trẻ một bài.



“Các cô các cậu chẳng nên thương xót những bà nhặt rác đó làm gì. Họ chẳng nghèo đâu. Linh hồn của họ siêu thoát khỏi thế giới trần tục này theo cách mà người bình thường không hình dung nổi. Cuộc đời họ không có chỗ nào dành cho sở hữu vật chất, nên ham muốn vật chất của họ rất dễ thỏa mãn. Mà nếu các cô các cậu lấy tiền làm tiêu chuẩn đánh giá, rồi các cô các cậu sẽ nhận ra rằng một vài người trong số họ chẳng nghèo khổ hơn những người làm nghề khác chút nào đâu”.



Ông bảo chúng tôi rằng ông từng thấy một bà nhặt rác trong hộp đêm cao cấp, đeo trang sức khắp người và uống rượu brandy Pháp giá một trăm tệ một ly.



“Thật vớ vẩn!” Mạnh Tinh, làm chương trình âm nhạc, phản bác lại. Với cô, riêng sự khác biệt thế hệ đã có nghĩa là cô không bao giờ tin bất kỳ điều gì Lý Đại nói rồi.



Vốn là người thận trọng nhất, không ngờ Lý Đại lại hăng máu lên đòi cá cược với Mạnh Tinh. Cánh nhà báo thích khuấy tung mọi thứ lên, nên những người khác đều hăng hái hùa vào gợi ý nên đặt cược bao nhiêu tiền. Và rồi họ quyết định cá một chiếc xe đạp.



Để thực hiện vụ cá cược, Lý Đại nói dối vợ rằng ông sắp phải làm một số bản tin tối, còn Mạnh Tinh bảo bạn trai là cô phải đi ra ngoài tìm hiểu về âm nhạc đương đại. Trong vài ngày sau đó, tối nào hai người cũng tới chỗ hộp đêm mà Lý Đại tuyên bố là người nhặt rác nọ thường lui tới.



Mạnh Tinh thua. Nhấm nháp whisky, người nhặt rác kể với Mạnh Tinh rằng thu nhập của bà ta từ việc bán đồ phế thải là 900 tệ mỗi tháng. Lý Đại kể Mạnh Tinh bị sốc mất mấy tiếng liền. Mạnh Tinh kiếm được khoảng 400 tệ một tháng, và cô được xem là một trong những nhân viên được ưu ái ở cấp bậc của cô. Kể từ đó, Mạnh Tinh không còn cầu kỳ về giá trị thẩm mỹ của nghề nghiệp nữa; miễn là có thể kiếm tiền, cô ta chấp nhận bất kể việc gì. Mọi người trong phòng nói rằng vụ thua cược cái xe đạp đã dẫn đến cung cách thực dụng kiểu mới đó.



Dù có để ý đến người đàn bà ngăn nắp sống trong lâu đài phế liệu đó, song tôi cũng chẳng chú ý nhiều lắm tới cách sống của những người nhặt rác. Thật lòng, trong tôi có phần nào đó xa lánh họ. Tuy nhiên, sau vụ của Mạnh Tinh, mỗi lần nhìn thấy người ta nhặt rác tôi lại cố đoán xem liệu thực ra họ có phải là người lắm tiền nhiều của hay không. Biết đâu lều của những người phụ nữ nhặt rác chỉ là nơi làm việc của họ, còn nhà của họ lại là những căn hộ cực kỳ hiện đại.



Chính chuyện cô bạn đồng nghiệp Tiểu Dao của tôi có thai đã thúc đẩy tôi tìm hiểu về người phụ nữ nhặt rác đó. Ngay khi Tiểu Dao biết mình có thai, cô ta bắt đầu đi tìm người trông trẻ. Tôi có thể hiểu tại sao cô lại bắt đầu tìm kiếm trước khi sinh chín tháng: tìm được ai đó đáng tin cậy để chăm sóc đứa bé và làm việc nhà không phải là việc dễ dàng.



Người trông trẻ của tôi là một cô bé mười chín tuổi ở quê ra, tử tế, trung thực, siêng năng, cô bé một thân một mình chạy ra thành phố để trốn một cuộc hôn nhân bị ép buộc. Cô bé cũng có chút tư chất, nhưng chưa bao giờ được giáo dục. Điều này khiến cuộc sống của cô bé gặp vô số trở ngại: cô bé không phân biệt được tờ tiền này với tờ tiền khác hoặc hiểu được tín hiệu đèn giao thông. Ở nhà, cô bé có thể òa khóc nức nở bởi vì không thể nhấc cái nắp nồi cơm điện ra, hay nhầm trứng muối cao cấp với trứng thối và vứt vào thùng rác. Một lần, cô bé chỉ vào một cái thùng rác nhỏ bên vệ đường, bảo tôi vẻ hoàn toàn nghiêm túc rằng cô đã bỏ thư từ của tôi vào "thùng thư" đó. Hàng ngày tôi đều phải để lại những lời hướng dẫn cẩn thận về những việc cô bé nên và không nên làm, và gọi điện đều đặn về nhà kiểm tra xem mọi thứ có ổn không. May thay, không có gì khủng khiếp xảy ra, đồng thời cô bé và Phan Phan cũng rất quấn nhau. Tuy nhiên, có một lần, tôi không thể ngăn nổi cơn giận. Đó là vào mùa đông, hôm ấy tôi đi làm về sau khi thực hiện chương trình và thấy Phan Phan, lúc đó mới mười tám tháng, đang ngồi trên cầu thang lên tầng năm, chỉ mặc độc một bộ quần áo ngủ mỏng. Nó bị lạnh bởi cái rét cắt thịt đến mức chỉ có thể khóc một cách yếu ớt. Tôi hớt hải chạy đến bế con lên và đánh thức cô bé trông trẻ đang ngủ say, tự sỉ vả bản thân vì không thể dành thời gian hay sự chăm sóc của người mẹ cho con mình.



Tôi không bao giờ bàn luận với các đồng nghiệp về những khó khăn trong việc chăm sóc con cái, nhưng tôi đã nghe rất nhiều chuyện khủng khiếp từ những người khác. Trên báo đầy rẫy những chuyện như vậy. Những cô giúp việc bất cẩn để trẻ con ngã từ bậu cửa sổ tầng bốn xuống mà chết; những người khác, ngu dốt và đần độn, để trẻ con vào máy giặt để tắm rửa, hay nhốt chúng vào tủ lạnh trong khi chơi trốn tìm. Còn có những trường hợp trẻ con bị bắt cóc đòi tiền chuộc, hoặc bị đánh đập.



Ít cặp vợ chồng nào sẵn sàng nhờ bố mẹ mình chăm sóc lũ trẻ, vì như vậy họ sẽ phải sống chung dưới một mái nhà. Hầu hết bọn họ sẵn sàng chấp nhận cuộc sống khó khăn hơn một chút để tránh cặp mắt soi mói của người già. Các bà mẹ chồng Trung Quốc, đặc biệt là những người truyền thống hoặc ít học, nổi tiếng là hay hành hạ con dâu, bởi chính họ đã từng phải co rúm lại trước mẹ chồng của họ ngày xưa. Mặt khác, người phụ nữ bỏ việc để dành thời gian chăm sóc con cái là một chuyện không thể thực hiện được, bởi vì gần như không thể chi tiêu cho cả gia đình chỉ bằng đồng lương trung bình của một người. Mà những ông chồng ở nhà làm nội trợ là điều chưa có ai nghe thấy bao giờ.



Nghe Tiểu Dao khẩn nài giúp tìm một người trông trẻ đáng tin, sống tình cảm và lương thấp, ông Trần đùa cợt đáp lại, “Có nhiều bà nhặt rác quanh đây đấy, sao cô không đề nghị một trong số những người nghèo khổ làm cho cô? Cô sẽ không phải lo chuyện họ bỏ việc, và cũng không cần phải trả cho họ nhiều tiền nữa.”



Người ta bảo rằng đàn ông nhìn xa, đàn bà nhìn kỹ. Giống như mọi điều khái quát, tôi chưa từng tin điều đó là thật, nhưng câu nhận xét bâng quơ của ông Trần khiến tôi kinh ngạc trước cái kiểu cái khó ló cái khôn đôi khi vẫn thấy ở đàn ông. Không chỉ mình tôi thấy thế. Vài đồng nghiệp nữ cũng buột mồm thốt lên thích thú: “Đúng! Sao chúng ta không nghĩ ra từ trước nhỉ?”




Người Đàn Bà Nhặt Rác nghe trong câu hỏi với vẻ mặt phức tạp. Rõ ràng là bà đang run lên, nhưng với một nỗ lực lớn bà đã kìm nén được mà đáp, “Chúng ta có thể thu xếp một buổi gặp sau Tết và tôi sẽ kể cho cô nghe.”



Sau đó, bà đóng cửa và không để ý đến tôi nữa. Tôi đứng như trời trồng ở đó. Chiếc chuông gió kêu leng keng trong ngọn gió lạnh buốt cuối cùng cũng đánh thức tôi khỏi trạng thái ngơ ngẩn, và tôi trở về nhà.



Tết Âm Lịch dường như kéo dài vô tận. Tôi cảm thấy vô cùng áy náy, sống một mình trong căn lều mỏng manh bị mưa gió dập vùi, không bạn bè, không người thân, Người Đàn Bà Nhặt Rác hẳn là còn lâu mới muốn mang thêm gánh nặng những câu hỏi thiếu tế nhị của tôi. Tôi nghĩ đến chuyện tới thăm bà, nhưng tôi biết rằng bà đã quyết định dứt khoát: Sẽ phải sau Tết Âm Lịch.



Vào ngày đi làm đầu tiên sau đợt nghỉ Tết, tôi vội vàng đến văn phòng từ rất sớm. Khi đi qua lâu đài phế liệu, tôi nhìn thấy cửa đã khóa móc. Người Đàn Bà Nhặt Rác cũng luôn rời nhà từ rất sớm. Điều này không có gì lạ: ai muốn ngủ muộn trong cái lều bé tin hin chẳng chống được nóng cũng chẳng che được lạnh này? Ở cổng đài phát thanh, người gác cổng oang oang gọi tôi lại để thông báo có người nào đó gửi lại cho tôi một bức thư từ hôm trước. Nhiều thính giả thường chịu khó đích thân mang thư tới. Có vẻ như họ nghĩ rằng làm vậy sẽ an toàn hơn, và có nhiều khả năng được tôi chú ý đến hơn. Tôi cảm ơn người gác cổng, nhưng không chú ý đặc biệt gì đến lá thư, mà bỏ luôn vào chiếc khay đựng công văn của tôi khi đi ngang qua.



Ngày hôm đó tôi lẻn ra ngoài ba, bốn lần để ra chỗ lâu đài phế liệu, nhưng cửa vẫn khóa và vẫn không thấy Người Đàn Bà Nhặt Rác đâu cả. Tôi bắt đầu cảm thấy hơi cáu vì bà ta không giữ lời, nhưng quyết định sẽ đợi bà đến cùng. Tôi muốn xin lỗi, và xí xóa vụ hộp sôcôla lần trước. Tôi quyết định ở lại văn phòng đến ca cuối để đọc thư.



Khoảng tám giờ hai mươi tối đó, tôi lại ra ngoài lần nữa, nhưng cửa lâu đài phế liệu vẫn khóa. Tôi tự hỏi tại sao bà ta vẫn chưa về. Phải chăng bà nhặt được rất nhiều đồ? Trở về phòng làm việc, tôi tiếp tục đọc thư. Lá thư tiếp theo được viết bằng nét chữ bay bướm, rất đẹp. Người viết hẳn là một phụ nữ có học vấn cao, một người đã được giáo dục rất tốt. Tôi đờ người ra khi đọc những dòng này:



Hân Nhiên thân mến!



Cảm ơn cô. Cảm ơn chương trình của cô - tôi vẫn nghe hàng ngày. Cảm ơn vì lòng chân thành của cô - bao năm rồi tôi mới có một người bạn. Cảm ơn vì hộp sôcôla rượu mùi của Nga - nó làm tôi nhớ ra rằng tôi là người đàn bà đã từng có một người chồng.



Tôi đã tặng cho con trai chúng tôi hộp sôcôla đó. Tôi nghĩ nó sẽ thích hộp sôcôla đó như cha nó trước kia.



Sống với mẹ là chuyện rất khó khăn với một đứa con trai, và cũng rất khó khăn đối với vợ nó. Tôi không muốn phá hoại cuộc sống của con trai tôi, hay khiến nó chịu khổ sở khi phải cố giữ cân bằng giữa vợ và mẹ. Tuy nhiên, tôi nhận ra rằng mình không thể nào lẩn tránh được bản tính đàn bà của mình và những thói quen chung thân của một bà mẹ. Tôi sống như thế này để được gần con trai tôi, để được nhìn thấy nó dù thoáng qua khi nó đi làm mỗi sáng sớm, xin đừng nói cho nó biết điều đó. Nó vẫn nghĩ rằng tôi đã chuyển về sống ở vùng nông thôn trong suốt thời gian rồi.



Hân Nhiên, tôi xin lỗi; nhưng tôi phải đi rồi. Tôi là một giáo viên dạy ngoại ngữ, và tôi nên trở lại nông thôn để dạy dỗ được nhiều trẻ em hơn nữa. Như cô từng nói trong chương trình của mình ấy, người già cần có một không gian riêng để dệt nên tuổi già đẹp đẽ cho chính mình.



Xin hãy bỏ quá cho tôi vì đã đối xử lạnh lùng với cô. Tôi đã dành hết tất cả sự ấm áp cho con trai tôi rồi, cha nó tiếp tục sống trong nó.



Chúc cô một năm mới hạnh phúc và an bình.



Người Đàn Bà Nhặt Rác



Lều Rác



Tôi có thể hiểu tại sao Người Đàn Bà Nhặt Rác lại ra đi. Bà ta đã để cho tôi nhìn thấu tâm can mình và sự hổ thẹn không để bà đối mặt với tôi lần nữa. Tôi cảm thấy ân hận vì đã buộc bà ra đi khỏi cái thế giới được tạo dựng công phu của bà, đồng thời cũng thấy tiếc cho bà vì bà đã đốt cháy mình để thắp sáng cuộc đời con cái, để rồi cam chịu bị hất sang bên lề. Niềm tin duy nhất của bà chính là tư cách của một người mẹ.



Tôi giữ bí mật cho Người Đàn Bà Nhặt Rác và không bao giờ nói với con trai bà chuyện mẹ anh ta đã dõi theo anh ta từng bước như thế nào. Nhưng tôi cũng không bao giờ tới nhà anh ta lần nữa, vì tôi trân trọng ký ức của Người Đàn Bà Nhặt Rác, người chưa bao giờ bước qua ngưỡng cửa ngôi nhà đó. Mặc dù trông anh ta có vẻ giàu sang, nhưng mẹ của anh ta mới chính là người giàu có thực sự.