Hảo Nữ Trung Hoa

Chương 5 : Những người mẹ hứng chịu trận động đất

Ngày đăng: 09:54 18/04/20


Khi cô đồng nghiệp Tiểu Dao sinh con, tôi thu xếp đến bệnh viện thăm cô cùng vài chị em cùng phòng. Mạnh Tinh rất phấn khích, vì cô chưa bao giờ đến phòng phụ sản. Giám đốc Trương ở bộ phận Đối Ngoại khuyên cô không nên đi: ở Trung Quốc, phụ nữ chưa sinh con bị cho là nặng vía đối với trẻ mới sinh. Mạnh Tinh bỏ ngoài tai lời cảnh báo, coi đó là chuyện mê tín của mấy bà già, và dẫn đầu đoàn chúng tôi đi vào bệnh viện.



Chúng tôi đến bệnh viện mang theo cơ man đồ ăn cho Tiểu Dao: đường đỏ và nhân sâm để cô uống bổ máu, chân giò lợn và cá để giúp sữa xuống nhiều, gà và hoa quả để phục hồi thể chất. Khi chúng tôi bước vào phòng, chúng tôi thấy Mạnh Tinh đã ríu rít trò chuyện với Tiểu Dao rồi. Cô đang ăn trứng luộc nhuộm đỏ tượng trưng cho hạnh phúc khi sinh được một đứa con.



Bố mẹ đẻ và bố mẹ chồng của Tiểu Dao cũng có mặt ở đó, căn phòng đầy ắp những món quà. Tiểu Dao trông hạnh phúc với vẻ tươi tắn đáng ngạc nhiên sau cơn vượt cạn. Tôi đoán rằng việc sinh được con trai cũng là một lý do khiến cô rạng ngời đến thế.



Qua bao thế hệ người Trung Quốc, câu nói này vẫn luôn luôn đúng: Dù có đủ cả ba mươi sáu phẩm chất, nhưng tội không sinh được người nối dõi đủ quét sạch trơn mọi phẩm chất đó. Một người phụ nữ sinh được con trai thì không thể chê trách vào đâu được.



Khi Tiểu Dao đang đau đẻ, cô ở trong phòng sinh cùng với bảy người phụ nữ khác. Tiểu Dao đã mấy lần bảo chồng chuyển cô đến một phòng riêng, nhưng anh ta không chịu. Khi nhận được tin cô sinh con trai, anh chồng ngay lập tức thu xếp để chuyển cô đến một phòng đơn.



Căn phòng chật chội nhưng sáng sủa. Chúng tôi mỗi người tự tìm lấy một chỗ mà ngồi, và mọi người bắt đầu chuyện trò như pháo rang. Tôi không giỏi tán chuyện lắm vì tôi không thích nói chuyện về đời tư của mình, câu chuyện về những gia đình không đầy đủ. Khi còn bé, tôi bị tách khỏi bố mẹ; khi trưởng thành, tôi không có gia đình thực sự của mình - chỉ có con trai tôi. Lặng lẽ ngồi nghe, tôi gấp một tờ giấy gói đồ thành hình một con thỏ theo kiểu gấp giấy Nhật Bản.



Ngoài tiếng trò chuyện của đồng nghiệp, tôi còn nghe thấy những giọng nói ngoài hành lang. Một người đàn ông nói bằng giọng nhỏ nhưng dứt khoát. “Em nghĩ lại đi. Chuyện này quá nguy hiểm.”



“Em không sợ. Em muốn biết cảm giác sinh con ra như thế nào,” người đàn bà đáp.



“Có thể em không sợ, nhưng anh thì sợ. Anh không muốn con anh mồ côi mẹ.”



“Nếu em không sinh nở tự nhiên, làm sao em có thể tự gọi mình là một người mẹ được?” Giọng người đàn bà có vẻ mất kiên nhẫn.



“Nhưng em biết rõ là trong tình trạng của em, em không thể...”



“Bác sĩ không bảo là 100% không thể!” người đàn bà ngắt lời, “em chỉ muốn tự mình thực hiện điều đó...” Tiếng của họ nhỏ dần khi họ đi xa.



Khi tôi chuẩn bị về, mẹ chồng của Tiểu Dao lén dúi một mảnh vải đỏ cho tôi và bảo đốt nó để “xua đuổi ma quỷ mà Mạnh Tinh dẫn tới”. Tôi không dám trái lời. Khi ra khỏi bệnh viện, tôi quẳng mảnh vải vào cái bếp lò trong một quầy hàng ăn ven đường, nhưng không kể gì với Mạnh Tinh, vì cô nàng rất ghét phải thừa nhận thất bại.



Ba tháng sau, tôi được mời đến dự bữa tối trong đám tang của một gia đình mà tôi không biết. Thính giả thường mời tôi đến tham dự các sự kiện gia đình, nhưng thường là đám cưới. Người lạ hiếm khi được mời đến dự các bữa cơm tối trong đám tang, nên tôi lấy làm bối rối. Bữa ăn được tổ chức ở một nhà hàng chứ không phải là phòng tiếp khách tang lễ hay đài hóa thân, và trên tấm thiệp mời đề nghị khách đến mang theo một cái tên bé trai. Tôi chưa từng gặp nghi lễ nào như vậy cả.



Tôi quyết định đi, và mang theo tên “Thiên Thi” (chìa khóa của trời). Chủ nhà bế một đứa bé vừa đầy tháng trên tay ra đón khách; vợ anh ta đã chết khi sinh con. Khi biết tôi là ai, ông ta bật khóc và hỏi tôi tại sao vợ ông ta lại không chịu mổ đẻ dù biết khi làm vậy sẽ cô sẽ phải mạo hiểm tính mạng của mình. Chẳng lẽ trải nghiệm sinh nở tự nhiên lại quan trọng hơn cả mạng sống?



Tôi tự hỏi mình không biết đây có phải là cặp vợ chồng mà tôi đã nghe thấy họ nói chuyện trong bệnh viện không. Tôi thấy sốc trước quyết định của người phụ nữ không quen này, nhưng từ nơi sâu thẳm, tôi hiểu niềm khao khát có được nếm trải độc nhất vô nhị ấy. Người chồng góa vợ của cô không thể hiểu và cũng không hiểu vậy. Anh ta hỏi tôi liệu tôi có thể cho anh ta biết làm thế nào để hiểu được phụ nữ không.



Tôi không biết con trai anh ta có lấy cái tên Thiên Thi không, nhưng khi rời khỏi đám tang ấy tôi hy vọng nó sẽ là chiếc chìa khóa trời ban cho cha nó để mở cánh cửa dẫn vào tâm hồn phụ nữ.



Tuy nhiên, tôi chỉ thực sự hiểu được làm mẹ có nghĩa là thế nào khi tới thăm thành phố công nghiệp Đường Sơn năm 1992, được xây lại sau khi bị phá hủy hoàn toàn trong trận động đất khủng khiếp làm 300.000 người thiệt mạng ngày 28 tháng Bảy năm 1976.



Vì đài phát thanh Nam Kinh là một trong những đài quan trọng của Trung Quốc, nên tôi thường phải đi khắp đất nước để tham dự những cuộc hội nghị ở địa phương về vấn đề phát triển công tác phát thanh và truyền hình. Mục đích duy nhất của những cuộc hội nghị này là nhắc lại như vẹt chính sách của Đảng chứ không phải tham gia vào một cuộc tranh luận đích thực nào. Để khỏa lấp sự thiếu hụt nhân tố kích thích mang tính tri thức, ban tổ chức thường bố trí cho những người tham dự đi tham quan vùng nông thôn xung quanh đó trong thời gian diễn ra hội nghị. Việc này giúp tôi có nhiều cơ hội để phỏng vấn những người phụ nữ các vùng khác nhau của Trung Quốc.



Trong một cuộc hội nghị như thế ở Thiên Tân, tôi có cơ hội đến thăm thành phố Đường Sơn ở kế cận. Trận động đất ở Đường Sơn năm 1976 là một ví dụ thảm khốc về việc thông tin liên lạc bị cắt đứt hoàn toàn ở Trung Quốc vào thời bấy giờ. Năm 1976, chính phủ Trung Quốc đang phải đối mặt với cái chết của ba nhân vật rường cột: Mao Trạch Đông, thủ tướng Chu Ân Lai và nguyên soái Chu Đức. Mối bận tâm về cuộc khủng hoảng này, cộng thêm sự yếu kém về kỹ thuật của Trung Quốc lúc đó, có nghĩa là họ hoàn toàn không hề nhận thức được rằng trận động đất đã xảy ra. Chỉ đến khi một người đàn ông từ Đường Sơn khăn gói đến tận Bắc Kinh thì tin tức mới lan ra khắp nơi. Nhưng ngay cả vậy, người ta vẫn cứ nghĩ ông này bị điên. Văn phòng Tân Hoa Xã ở vùng có thành phố Đường Sơn biết được thông tin về trận động đất không phải từ văn phòng trung ương mà từ báo chí nước ngoài, các báo này nhận được tin từ các trung tâm giám sát động đất tân tiến hơn của các nước khác.



Khi ở Đường Sơn tôi được nghe kể về một trại trẻ mồ côi khác thường được xây dựng và điều hành bởi những người mẹ mất con trong trận động đất. Tôi nghe kể rằng họ đã gom góp tiền cho trại trẻ bằng những khoản đền bù nhận được. Tôi gọi điện để sắp xếp một chuyến thăm. Trại trẻ được xây dựng với sự giúp đỡ của đơn vị quân đội đồn trú tại địa phương, nằm ở ngoại ô, bên cạnh viện điều dưỡng quân đội. Tôi nghe thấy tiếng trẻ con khi đi tới hàng rào gỗ và những bụi cây thấp bao quanh trại. Đây là một trại trẻ không có nhân viên hành chính; một số người gọi đó là một gia đình không có đàn ông. Vài bà mẹ và mấy chục đứa trẻ sống ở đó.



Tôi thấy bọn trẻ đang tập thể dục ở sân, còn các bà mẹ đang làm màn thầu trong bếp. Những người phụ nữ chào đón tôi với những bàn tay dính đầy bột mì, bảo rằng họ thích chương trình của tôi lắm. Vẫn mặc nguyên tạp dề, họ đưa tôi đi tham quan một vòng quanh trại trẻ.



Mỗi bà mẹ sống cùng năm hay sáu đứa trẻ trong một căn phòng rộng, bài trí sơ sài, nhưng thoải mái ấm cúng. Nhà kiểu này khá phổ biến ở miền Bắc Trung Quốc: choán lấy một nửa căn phòng là chiếc kháng, một loại giường kiêm lò sưởi xây bằng gạch hay đất sét. Vào mùa đông người ta có thể đốt lửa dưới gầm kháng để làm cho nó ấm và vào ban đêm mọi người trong gia đình cùng ngủ trên đó. Chăn của từng người đóng vai trò ranh giới phân chia chỗ ngủ. Ban ngày, những tấm chăn được cuộn sang một bên lấy chỗ đặt một chiếc bàn nhỏ làm nơi sinh hoạt và ăn uống cho cả phòng. Nửa còn lại của căn phòng để tủ tường, một cái tràng kỷ và mấy cái ghế đẩu cho khách ngồi.



Khác với những ngôi nhà bình thường, các căn phòng trong trại trẻ được trang trí màu sắc lộn xộn đủ loại, theo sở thích của lũ trẻ. Mỗi căn phòng đều có phong cách trang trí riêng, nhưng có ba vật luôn hiện diện ở tất cả các phòng. Thứ nhất là một khung treo ảnh của tất cả những đứa trẻ từng sống trong trại. Thứ hai là một bức phác họa đôi mắt trào lệ, với hai từ viết trên con ngươi: Tương Lai. Thứ ba là một cuốn sách trong đó ghi lại tiểu sử của từng đứa trẻ.



Những người phụ nữ ở đây rất tự hào về lũ trẻ, và họ làm tôi thích thú với chuyện kể về thành tích của chúng, nhưng chính những câu chuyện về những người phụ nữ đó mới là điều tôi muốn nghe nhất.



Trong lần đến thăm đầu tiên, tôi chỉ phỏng vấn được một bà mẹ, bà Trần. Bà từng sống nhờ trợ cấp quân đội, và có ba đứa con. Tôi trò chuyện với bà trong khi giúp bà hấp màn thầu cho lũ trẻ, tôi gọi bà là “dì” vì bà đáng tuổi mẹ tôi.



“Dì Trần, cháu có thể hỏi dì về chuyện đã xảy ra hôm động đất không? Cháu xin lỗi, cháu biết những ký ức đó hẳn là rất đau xót...”



"Không sao đâu - chưa một ngày nào qua đi mà tôi lại không nhớ cái ngày hôm ấy. Tôi không nghĩ có người sống sót nào quên nổi sự kiện ấy. Mọi chuyện đều quá đỗi không thực vậy... Sáng hôm đó, trời chưa sáng, một âm thanh kỳ lạ đánh thức tôi, tiếng ầm ầm và gầm rú, như tiếng đoàn tàu đang lao thẳng về phía nhà tôi vậy. Tôi ngỡ mình đang mơ - những giấc mơ thường lạ kỳ như vậy - nhưng tôi vừa sắp sửa hét lên thì một nửa phòng ngủ, cùng với chồng tôi đang ngủ trên giường đã bẹp rúm. Phòng ngủ của lũ trẻ ở phía bên kia nhà đột nhiên hiện ra trước mắt tôi, như là một sân khấu vậy. Con trai lớn của tôi mắt trợn tròn, miệng há hốc; con gái tôi khóc và gọi to, vươn hai tay về phía tôi; còn thằng út thì vẫn ngủ ngon lành.




“Vẫn muốn nữa à?”



“Không phải chuyện đó. Tao chỉ lo không biết sau khi mình bỏ ở đây nó có chết không thôi”.



“Mẹ kiếp, tao không còn nghĩ đến chuyện đó!”



“Điều chúng ta làm đã xấu xa lắm rồi, nếu nó chết thì sao?”



“Mày có ý gì? Muốn quay lại kiểm tra à? Thế thì tốt nhất là nên đi nhanh thôi. Rồi lúc quay lại mới còn chỗ chứ, bằng không nếu phải ngủ ngoài trời, chúng ta sẽ ướt sũng nước mưa đấy.”



Tôi nhìn quanh xem ai đang nói, và cảm thấy choáng váng khi nhìn thấy một đoạn dây nhiều màu thò ra chỗ quần soóc của một gã đàn ông. Trông nó giống y như sợi dây buộc tóc của con gái tôi. Tôi không muốn tin là bọn chúng đang nói về con gái mình, nhưng nếu đúng là thế thì sao? Tôi lao đến chỗ hai gã đó và hỏi chúng lấy sợi dây đó ở đâu ra. Chúng không đưa ra câu trả lời chính xác, khiến tôi càng nghi ngờ. Tôi hét lên một cách dữ tợn, tra vấn cô bé mà chúng nói tới đang ở đâu; chúng sợ hãi lầm bầm gì đó về một cái mương cạnh đường băng ở đằng xa, rồi bỏ chạy. Tôi còn chẳng thể hỏi chúng thêm điều gì nữa, chứ đừng nói đến chuyện tóm cổ chúng; tất cả những gì tôi muốn là biết liệu cô bé đó có phải là con gái tôi không.



Tôi chạy theo hướng hai tên đó nhắc đến. Khi chạy tới bờ mương, tôi nghe thấy tiếng rên yếu ớt, nhưng không thể nhận ra ai trong bóng tối. Vừa lúc đó, có hai người lính đang đi tuần tiến lại chỗ tôi; họ có đèn pin và đang gác cho những người bị thương nằm trên đường băng. Tôi nhờ họ chiếu đèn pin xuống mương. Trong ánh sáng đèn pin yếu ớt, chúng tôi thấy một cô bé trần truồng. Trong khoảnh khắc ấy, lòng dạ tôi rối bời; tôi vừa mong lại vừa không mong đó là con gái tôi. Khi hai người lính giúp tôi đưa cô bé lên đường băng, tôi nhận ra đó chính là con gái tôi.



“Tiểu Anh, Tiểu Anh!” Tôi hét gọi tên con bé, nhưng nó chỉ nhìn tôi với ánh mắt hoang mang, không phản ứng lại dù chỉ một chút. “Tiểu Anh, mẹ đây mà!" Đột nhiên, tôi nhận thấy phần dưới cơ thể con bé dính và ướt, nhưng tôi không có thì giờ đâu mà nghĩ gì thêm khi vội vã mặc cho nó bộ quần áo mà hai người lính gác cho mượn. Kỳ lạ thay, Tiểu Anh lại tụt chiếc quần dài xuống.



Khi tôi hỏi nó sao lại làm vậy, nó chỉ nhắm mắt lại ậm ừ. Nó quá mệt và nhanh chóng ngủ thiếp đi. Tôi nằm cạnh, mê mụ người một lúc lâu rồi mới ngủ. Khi ngày rạng, tiếng động cơ máy bay làm tôi thức giấc. Khi nhìn sang Tiểu Anh đang nằm bên cạnh, tôi chết lặng cả người: nó đang cởi quần dài ra với nụ cười nhăn nhở ngớ ngẩn trên mặt, chân và háng nó đều bê bết máu. Ngay lúc ấy, tôi nhớ lại những lời hai gã kia đã nói. Có phải chúng đã lợi dụng thảm họa này để cưỡng hiếp Tiểu Anh? Tôi không dám tin vào điều đó. Và con gái tôi, một cô bé rạng rỡ, hoạt bát, đã trở nên mất trí.



Bác sĩ nói Tiểu Anh đã phải chịu đựng cú sốc quá lớn, và bảo vợ chồng tôi rằng chắc chắn Tiểu Anh đã bị hiếp dâm tập thể. Đó là tất cả những gì tôi nghe được trước khi xỉu đi. Khi tỉnh lại, chồng tôi đang cầm tay tôi, mặt ông ấy đẫm nước mắt. Chúng tôi nhìn nhau không nói và khóc: con gái chúng tôi đã bị bạo hành đến mức mất trí, còn còn trai bị cưa cụt chân..."



Trại trưởng Đinh im lặng.



“Cháu muốn hỏi cô có đưa Tiểu Anh đi điều trị không?” tôi khẽ khàng hỏi.



"Có chứ, nhưng chúng tôi không hiểu được rằng nó sẽ vẫn cảm thấy nỗi kinh hoàng đó ngay cả khi đã khỏi bệnh. Hai năm rưỡi sau đó, khi trí nhớ của nó bắt đầu trở lại bình thường, trước cái ngày chúng tôi định đưa nó trở về nhà để bắt đầu một cuộc sống mới, Tiểu Anh đã treo cổ trong phòng bệnh.



Trong lá thư tuyệt mệnh, nó viết:



Bố mẹ thân yêu!



Con xin lỗi, con không thể tiếp tục sống được nữa. Lẽ ra bố mẹ không nên cứu con.



Chẳng có gì trong ký ức đang trở lại của con ngoại trừ mọi thứ sụp đổ, cùng sự tàn bạo và hung ác của những kẻ đó. Đó là tất cả những gì còn lại với con trên cõi đời này, và con không thể sống với những ký ức đó hàng ngày được. Nhớ lại chuyện ấy quá đau đớn, con đi đây.



Con gái của bố mẹ, Tiểu Anh.



“Lúc ấy Tiểu Anh bao nhiêu tuổi?” tôi hỏi.



“Nó mười sáu, em trai nó mười một.” Trại trưởng Đinh ngừng lời. “Chồng tôi dứt tóc vì quá đau khổ, bảo rằng chính mình đã làm con bé tổn thương, nhưng tất nhiên đó không phải lỗi của ông ấy. Đêm đó, mãi tới khuya ông ấy mới lên giường đi ngủ. Tôi kiệt sức, và đã ngủ trước rồi, nhưng khi tôi tỉnh dậy, thân thể ông ấy đã lạnh ngắt, và mặt ông ấy đóng băng trong nỗi buồn. Giấy chứng tử do bác sĩ cấp viết rằng ông ấy chết vì đau tim do quá suy kiệt.”



Tôi thấy khó thở. “Trại trưởng Đinh, thật khó tưởng tượng là dì có thể chịu đựng nổi chuyện đó.” Bà gật đầu vẻ cam chịu.



“Và dì không muốn con trai biết chuyện?”



“Nó đã phải chịu đựng một cơ thể bị tàn phá rồi; làm sao nó có thể chịu thêm sự tàn phá về tinh thần và tình cảm nữa?”



“Nhưng dì đã dũng cảm sống tiếp.”



“Tôi đã vượt qua được, nhưng tôi không thực sự dũng cảm. Tôi là loại người mạnh mẽ trước mắt người khác, là loại đàn bà được gọi là người đàn bà thép, nhưng khi ở một mình tôi khóc suốt đêm: cho con gái tôi, chồng tôi, con trai tôi, và cho chính tôi. Đôi khi, tôi không thở nổi vì nhớ họ. Có người bảo rằng thời gian sẽ chữa lành mọi thứ, nhưng nó chưa chữa lành được cho tôi.”



Trên chuyến tàu trở về nhà, tôi khóc suốt. Tôi lại khóc nữa khi cầm bút lên viết về trải nghiệm mà những người mẹ đó phải trải qua. Tôi thấy thật khó tưởng tượng nổi sự dũng cảm của họ. Họ vẫn tiếp tục sống. Thời gian đã đưa họ đến với hiện tại, nhưng trong từng phút, từng giây trôi qua, họ vẫn phải vật lộn với cảnh tượng mà những người đã khuất để lại trong họ; từng ngày từng đêm họ phải chịu đựng những ký ức mất con đau đớn. Đó không phải nỗi đau có thể bị xóa nhòa bằng ý chí của một cá nhân: những đồ gia dụng nhỏ bé nhất - cây kim sợi chỉ, cái đũa cái bát - có thể mang họ trở về với gương mặt tươi cười và giọng nói của những linh hồn đã chết. Nhưng họ vẫn phải sống; họ phải đi ra khỏi ký ức của mình và trở về với thực tại. Chỉ đến lúc đó tôi mới hiểu tại sao lại có bức tranh vẽ một con mắt trong tất cả các phòng ở trại trẻ - con mắt to, trào nước mắt đó, con mắt có ghi hai chữ Tương Lai trên con ngươi đó. Họ đã không cất giữ tình mẹ trong những ký ức về các con mình; họ không đắm chìm trong những giọt nước mắt đau khổ và chờ đợi lòng thương hại. Với sự vĩ đại của người mẹ, họ đã tạo dựng gia đình mới cho lũ trẻ đã mất cha mất mẹ. Đối với tôi, những người đàn bà đó đã chứng tỏ được sức mạnh không thể tưởng tượng nổi của người phụ nữ Trung Quốc. Là một người mẹ, tôi có thể hình dung nỗi mất mát của họ, nhưng tôi thực sự không biết liệu tôi có thể vị tha đến thế khi phải gánh chịu nỗi đau của họ hay không.



Khi phát đi chương trình dựa trên những cuộc phỏng vấn này, tôi nhận được hơn bảy trăm lá thư trong vòng năm ngày. Một số người đề nghị tôi chuyển đến những người mẹ ở trại trẻ mồ côi lòng tôn kính của họ, và cảm ơn các bà mẹ. Một số người gửi tiền nhờ tôi mua quà cho lũ trẻ. Họ cùng chia sẻ những cảm xúc mà chương trình đã khơi lên: một phụ nữ nói bà cảm thấy biết ơn các con mình; một cô bé nói lần đầu tiên cô muốn ôm mẹ mình; một cậu trai bỏ nhà ra đi từ vài tháng trước nói cậu đã quyết định trở về với bố mẹ và cầu xin họ tha thứ. Tất cả bàn trong văn phòng đều tràn ngập những lá thư như thế, và một thùng các tông to lù lù đặt cạnh cửa ra vào chứa đầy những món quà tặng cho lũ trẻ và các bà mẹ. Trong đó có những món đồ của ông Trần, Lý Đại, Mạnh Tinh, Tiểu Dao, ông Trương... và nhiều đồng nghiệp khác.