Hoàng Phi Sở Đặc Công Số 11
Chương 5170 : Cuộc sống điền viên
Ngày đăng: 19:04 19/04/20
“Vượt sông mất 42 ngày, sau khi chiếm được những thành phố lớn như Nam Kinh, Thượng Hải, Vũ Hán, toàn bộ hai tỉnh Giang Tô, An Huy và phần lớn Giang Tây, Hồ Bắc, Phúc Kiến, để giải phóng toàn bộ Hoa Đông rồi đến Hoa Nam, tiến quân về phía Tây Nam chính là điều kiện tiên quyết.”
Khuôn viện ngập trong ánh hoàng hôn, chân trời đỏ rực, ngay cả gốc đa già xù xì cũng như bị nhuộm đỏ. Tháng sáu, trời càng lúc càng nóng, cho dù trong viện có hồ nước thì không khí vẫn rất oi bức.
“Được rồi, nói đến khô miệng luôn, mấy đứa này, chỉ biết quấn lấy tiểu thư là giỏi.” Mai Hương bưng một bát sứ đi ra, nàng mặc một bộ y phục thoải mái, ống tay xắn cao đến tận khuỷu, vừa đi vừa dài giọng rao: “Nước ô mai ướp lạnh đây, ai muốn khôôôôôôôông…”
Thanh Thanh nghe vậy liền nhỏm dậy, vỗ tay hoan hô: “Woah! Có nước ô mai uống!” Dứt lời liền vội vàng chạy vào bếp phụ bê nước ra.
“Tiểu thư, em có dùng băng trong hầm ướp lạnh, uống rất mát, người thử xem.”
Sau khi rời hỏi Đường Kinh, Sở Kiều không cho Mai Hương gọi mình đại nhân nữa, vốn muốn Mai Hương xem mình như tỷ muội mà xưng hô, nhưng nàng lại chết sống không chịu làm theo. Sở Kiều không thể làm gì khác ngoài để mặc nàng gọi mình tiểu thư.
Nắng chiều vô cùng ấm áp, Sở Kiều không giống như đám người Mai Hương, so với ngày hè ở thế kỷ 21, nhiệt độ bây giờ nhiều nhất cũng chỉ như xuân thu ở kiếp trước thôi, có điều nước ô mai Mai Hương làm quả thực rất ngon, không thể không uống.
“Tỷ tỷ, chỗ đó không phải có phi cơ sao? Tại sao không trực tiếp dùng phi cơ bay qua? Sao còn phải dùng thuyền sang sông nữa?”
Một cánh bướm bay đến, chập chờn lượn quanh khóm lan trong vườn, Sở Kiều ngồi dưới gốc đa, thân mặc áo ngắn tay màu lam nhạt, phía dưới là một chiếc váy dài màu trắng ngà, nhìn vừa thanh lịch vừa thoải mái,“Đa Cát, giải thích cho Bình An nghe đi.”
Đa Cát đăm chiêu suy nghĩ một thoáng rồi để chén nước xuống, nói với bộ dạng như rất từng trải: “Phi cơ hẳn là vật hiếm, rất quý giá. Nhưng Tưởng nguyên soái được phương Tây chống lưng nên sở hữu không quân hùng mạnh, còn Mao nguyên soái thì không có sự ủng hộ của nước ngoài, lại tác chiến trong thời gian dài, lại không chọn thành phố lớn làm căn cứ địa, không có trang bị quân sự tiên tiến là chuyện bình thường, vì vậy phe bọn họ có lẽ cũng chẳng có phi cơ hay không quân.”
Sở Kiều bưng chén hớp một ngụm, nước ô mai lành lạnh chảy qua cuống họng, mát đến tận phổi. Nàng cười nói: “Đa Cát nói rất đúng, thời điểm đó sức sản xuất không cao, Mao nguyên soái cũng không có thế lực không quân, ban đầu đây chính là nguyên nhân chủ yếu khiến bọn họ phải chịu thương vong cực lớn.”
Bình An đột nhiên cảm thán, “Tỷ tỷ, nước Trung Quốc mà tỷ nói, thật lợi hại, y như trong truyện cổ thần thoại vậy. Có thể bay lên trời, có đại pháo bắn một phát là oanh tạc cả một tòa nhà, nếu như bọn họ chạy tới đánh Tây Mông của chúng ta, chỉ cần cho pháo binh nã một phát cũng đủ đánh bại chúng ta. Thiết võ quân của Đại Hạ hay Hắc ưng quân của Bắc Yến gì đó đều không phải là đối thủ.”
“Đó đều là thần thoại thôi.” Thanh Thanh bĩu đôi môi đỏ ửng vì nước lạnh, vừa tiếp tục nhâm nhi nước ô mai vừa nói: “Thế giới chúng ta sao có vật đáng sợ như vậy chứ?”
Sở Kiều không nói mà chỉ lẳng lặng mỉm cười, Mai Hương rót thêm một chén nước ô mai đưa đến, nàng đón lấy cầm trong tay, cảm nhận hơi lạnh xuyên qua đầu ngón tay lan ra toàn thân, vô cùng dễ chịu.
“Chưa chắc.” Đa Cát lắc đầu, hoài nghi nói: “Ba trăm năm trước, đại lục Tây Mông chúng ta còn chưa có thuyền to, hải phận chưa từng xuất hiện chiến tranh. Nhưng bây giờ đại lục đã có thương đội có thể gióng thuyền đến tận chỗ người phiên xa xôi. Chưa kể đến đồ sắt, năm trăm năm trước, tổ tiên chúng ta đánh giặc đều dùng vũ khí bằng đồng, đao kiếm gì đó đều rất mềm, lúc đó làm gì có ai nghĩ đến chuyện rèn ra kiếm sắt như hôm nay? Đó là chưa nói đến những thứ như giấy và vải vóc, trước kia con người đều dùng đá khắc chữ, dùng trúc cuốn lại thành sách, dùng da thú làm y phục, còn bây giờ thì sao? Cho nên phải nói, kỹ thuật luôn phát triển không ngừng, có lẽ qua mấy trăm năm nữa, hoặc mấy ngàn năm nữa, chưa biết chừng sẽ thật sự xuất hiện phi cơ có thể bay lên trời như tiểu thư nói, có thể có đại pháo bắn một phát làm nát vụn một gian phòng.”
Sở Kiều nghe nói thì vui vẻ nhìn Đa Cát, khen ngợi, “Vẫn là Đa Cát biết nhìn xa.”
Đa Cát thường ngày luôn trầm tĩnh như ông cụ non, nhưng hễ đối mặt với Sở Kiều liền xấu hổ đỏ mặt. Cậu gãi đầu, ngây ngô cười nói: “Tiểu thư, có mấy chỗ Đa Cát vẫn chưa rõ lắm.”
Sở Kiều hứng thú nhìn cậu, “Nói nghe thử xem.”
“Đầu tiên, ta cảm thấy nguyên lý của đại pháo và đạn hỏa tỷ tỷ chế ra lúc còn ở Bắc Yến có chỗ tương đồng, cũng rất giống pháo trúc bán ở chợ. Không biết chúng có liên quan gì không?”
Sở Kiều càng thêm vui mừng, gật đầu xác nhận rồi mỉm cười nói: “Đa Cát thật thông minh, đích thực là có điểm chung, pháo trúc là hỏa lực dạng thô sơ nhất, nguyên lý cũng giống như đạn hỏa. Chỉ có điều, đạn hỏa mượn sức của mảnh băng khi nổ nên mới có uy lực lớn hơn, còn muốn đạt đến trình độ của đại pháo thì cần kỹ thuật chế tác tỉ mỉ cực cao, với kỹ thật rèn sắt hiện giờ của chúng ta thì rất khó làm được.”
Bình An và Thanh Thanh rõ ràng nghe không hiểu nhưng cũng gật đầu hùa theo. Đa Cát im lặng suy nghĩ một lát rồi lại ngước lên hỏi: “Tiểu thư kể về những loại vũ khí này, ta vẫn cảm thấy không giống như thuận miệng kể chuyện thần thoại mà thôi, hẳn là có nguyên do gì đó, chỉ là tạm thời vẫn chưa nghĩ ra.”
Cậu chau mày, dáng vẻ vô cùng đăm chiêu thực giống một ông cụ non, đột nhiên lại hỏi: “Tiểu thư, hôm qua người bảo chúng ta trở về suy nghĩ nguyên nhân thất bại và thắng lợi của Tưởng nguyên soái và Mao nguyên soái, ta cũng có vài ý kiến, không biết có đúng hay không?”
Sở Kiều khích lệ cậu, “Nói thử ta nghe xem nào.”
Đa Cát yên lặng một lúc lâu như đang do dự gì đó, cuối cùng lấy hết dũng khí mới mở miệng nói: “Ta cảm thấy Mao nguyên soái có thể chiến thắng, chủ yếu là vì được dân chúng ủng hộ.”
Cậu vừa dứt lời thì Bình An lập tức phản đối, “Không đúng, không đúng. Phải do gã Tưởng nguyên soái kia quá ngu mới đúng, thuộc hạ đều ôm tâm tư riêng, quân đội đông nhưng lại chia năm xẻ bảy, cuối cùng đều phản bội ông ta, bằng không ông ta đã không thua.”
Sở Kiều quay sang nhìn Bình An, lẳng lặng hỏi: “Vậy em có nghĩ vì sao thuộc hạ của Tưởng nguyên soái lại phản bội ông ta không?”
“Bởi vì…” Bình An thoáng ngẩn ra, vốn định nói vì Tưởng nguyên soái quá ngu ngốc, nhưng nghĩ kỹ thì lại thấy có gì không đúng, ấp úng một hồi mới nói: “Bởi vì bên phe của Mao nguyên soái đông đúc, bọn họ sợ nên mới làm phản.”
“Vậy tại sao bên Mao nguyên soái lại trở nên đông như vậy? Phải biết rằng lúc chiến tranh vừa bắt đầu, quân số giữa hai bên cách biệt rất lớn.”
Bình An nhất thời á khẩu, quanh co một hồi vẫn không nói được nguyên do.
Đa Cát ở bên cạnh đỡ lời: “Ta cảm thấy, có vài chuyện Mao nguyên soái đã làm thật sự vô cùng anh minh.”
Cậu thành thật phân tích tiếp: “Mao nguyên soái đã sử dụng phương thức tác chiến cực kỳ cao minh. Lúc mới bắt đầu chiến tranh, ông ta liền bỏ thành lớn trở về nông thôn, hơn nữa còn tiến hành cải cách ruộng đất, phân đất cho người dân. Làm như vậy, dân chúng tự nhiên sẽ ủng hộ ông ta, cũng hy vọng ông ta có thể làm hoàng đế, nên sẽ đồng loạt chạy đến đầu quân, dần dần quân đội của ông ta trở nên càng lúc càng đông, còn của Tưởng nguyên soái thì càng ngày càng ít. Cho dù vũ khí lạc hậu nhưng nhờ có nhiều người, qua thời gian dài tất nhiên sẽ chiếm ưu thế. Chưa kể, Mao nguyên soái trị quân nghiêm minh, tuyệt đối không cho phép binh lính làm hại dân chúng, trong quân đoàn kết một lòng, tất cả đồng tâm hiệp lực cho nên mới có sức mạnh lớn như vậy. Còn về phần thuộc hạ của Tưởng nguyên soái, đa phần đều là tham quan, quân kỷ không nghiêm, nội bộ hỗn loạn, cấp dưới không ngừng tranh quyền đoạt thế. Quân đội như vậy, ban đầu có thể có ưu thế nhờ vào trang bị và số lượng, nhưng về sau sớm muộn gì cũng sẽ thất bại.”
Dân chúng tụ tập hóng chuyện nhất thời đồng loạt hoan hô khen ngợi. Bình An còn đang đắc ý, đảo mắt nhìn thấy Sở Kiều và Đa Cát cùng nhau rời đi thì vội vã kéo Thanh Thanh chạy theo.
Đám đông nhìn theo mấy người bọn họ rời đi, không khỏi e ngại cảm thán.
Dưới gốc liễu cạnh bờ hồ, một công tử khoảng hai mươi sáu hai mươi bảy mặc trường sam trắng tinh, lẳng lặng nhìn theo hướng bọn Sở Kiều vừa đi, thật lâu vẫn không rời đi.
Sau khi về đến nhà, bốn người nhìn thấy Mai Hương đang đứng trước cửa chờ với bộ dạng mong ngóng. Nàng thấy bọn họ liền vội vàng chạy đến, lại bắt đầu càm ràm.
Đa Cát nhanh chóng kể lại chiến tích của bọn họ hôm nay, rốt cuộc khiến mặt Mai Hương thoắt trắng thoắt hồng một trận, thế là lại mắng Bình An và Thanh Thanh là yêu tinh chuyên gây chuyện.
Bữa tối có bốn món ăn một món canh, rau thịt đầy đủ, năm người cùng nhau ngồi ăn. Ngô đại nương không ở trong viện nên Mai Hương có dịp xuống bếp, Sở Kiều bị nàng buộc ăn hết một bát cơm đầy mới được tha.
Đến đêm cả bọn ngồi dưới gốc đa tám chuyện hóng mát, Sở Kiều hôm nay ra ngoài nên hơi mệt, nghe câu được câu không, cũng không tham gia nói chuyện.
Mai Hương vừa thêu thùa vừa nói: “Hôm nay có một chuyện lạ, Hoa bà bà ở phố Đông chạy tới tìm ta, nói muốn làm mai cho con trai duy nhất của Tống tiên sinh trường tư thục ở phía nam thành, bị ta trực tiếp cự tuyệt rồi.”
Thanh Thanh nghe vậy thì cười váng lên: “Ha ha ha, cóc mà đòi ăn thịt thiên nga, con trai nhà bọn họ là thứ gì mà cũng dám mơ tưởng đến tỷ tỷ.”
Mai Hương ngẩng đầu lên nhìn cô bé, kỳ quái hỏi: “Ta nói bọn họ muốn cưới tiểu thư hồi nào?”
“Hả? Chẳng lẽ nhìn trúng Mai tỷ sao?”
Mai Hương giơ tay vỗ đầu Thanh Thanh một cái, nói: “Nha đầu ngốc, người ta là để ý muội mới cho người đến làm mai.”
Mai Hương vừa dứt lời thì mặt Thanh Thanh lập tức đỏ ửng, cô bé vội vàng mắng: “Khốn kiếp! Lần sau gặp mặt gã con của Tống lão đầu, muội sẽ chặt đứt chân hắn!”
“Muội có người đế ý là may rồi, còn ở đó già mồm cái gì.” Bình An đang gặm táo, thuận miệng ném ra một câu.
Nhưng Mai Hương lại lắc đầu, nói: “Thật ra thì con trai của Tống tiên sinh không tệ, cũng là người có công danh, còn hết sức văn vẻ lịch sự, nghe nói mùa thu năm nay sẽ tham gia đại khảo rồi. Có điều muốn lấy Thanh Thanh thì không được, Đa Cát năm nay cũng đã mười tám, chờ Thanh Thanh sang năm cập kê thì làm tiệc mừng cho hai đứa được rồi.”
Mai Hương vừa dứt lời thì tất cả đồng loạt sửng sốt, Thanh Thanh mặt đỏ như sắp bật máu, đầu cúi gằm, không còn lớn tiếng phản bác như lúc nãy.
Đa Cát thì thoáng nhăn mày, không tự nhiên nói: “Mai tỷ, ai bảo ta và Thanh Thanh muốn thành hôn?”
Mai Hương nhướng mày, nói: “Còn phải hỏi sao? Ai chẳng biết?”
Đa Cát đứng dậy, bình tĩnh nói: “Ta lại không biết.” Dứt lời liền xoay người trở về phòng.
Tất cả đều ngẩn người, không biết nói gì mới phải, ngay cả Bình An cũng há to miệng ngây ra.
Thanh Thanh đỏ mắt, đứng bật dậy chạy về phòng mình.
“Ta… ta có nói gì sai sao?” Mai Hương trợn mắt há hốc mồm, cũng vội vàng đứng lên đi đến phòng Thanh Thanh.
“Tỷ tỷ, chuyện gì vậy?”
Sở Kiều quay đầu nhìn sân viện trống trải, không đáp lời.
Gió đêm mang theo hơi ấm, tiếng ve sầu rền vang nghe thật não nề.
Đến khuya chợt có người gõ cửa phòng Sở Kiều, Sở Kiều còn chưa ngủ, khoác áo vào rồi ra mở cửa, đập vào mắt là khuôn mặt đầy nước mắt của Thanh Thanh đang đứng trước cửa.
Nhìn thấy Sở Kiều, tiểu nha đầu đột nhiên nhào vào lòng nàng, thương tâm khóc to.
Sở Kiều kéo nàng vào phòng, vỗ về an ủi mãi nhưng Thanh Thanh vẫn không ngừng khóc, cũng không nói gì. Khoảng một canh giờ sau, cô bé mới dịu lại, tuy vẫn còn thút thít mấy tiếng.
“Được rồi, đừng khóc nữa, Đa Cát chỉ nói đùa một câu thôi.”
Thanh Thanh đứng dậy, gạt nước mắt trên mặt, lắc đầu nói: “Không phải đùa đâu.”
Sở Kiều dĩ nhiên hiểu, nhưng không đành lòng khiến cô bé buồn nên vẫn an ủi: “Chớ suy nghĩ nhiều.”
“Thật ra muội biết.” Thanh Thanh cúi đầu, lẩm bẩm: “Đa Cát không thích muội, người trong lòng Đa Cát là tỷ tỷ.”
Sở Kiều sửng sốt, cau mày nói: “Em nói bậy gì đó?”
“Muội không nói bậy.” Thanh Thanh ngẩng đầu lên, khuôn mặt nhỏ đầy nước mắt nhìn hết sức đáng thương. Cô bé bướng bỉnh nói: “Muội có gặp Đa Cát lén giấu hình tỷ tỷ dưới gối.”
Sở Kiều nhíu mày chặt hơn, hồi lâu cũng không nói gì.
“Nhưng muội cũng biết tỷ tỷ không thích Đa Cát, người trong lòng tỷ tỷ chính là người đã đưa ngọc bội cho tỷ tỷ.” Tiểu nha đầu nói xong, lau nước mắt rồi chạy ra khỏi phòng.
Trăng ngoài cửa sổ vừa lớn vừa tròn, ánh trăng chiếu qua cửa sổ rọi sáng bừng cả gian phòng. Khối ngọc bội trắng như tuyết trên gối bắt ánh trăng, càng thêm sáng bóng.
Sau một đêm không ngủ, sáng sớm hôm sau đã có người gõ cửa tiểu viện. Một thư đồng áo xanh cung kính cúi chào rồi lễ phép nói: “Xin hỏi chủ nhân có nhà không? Công tử nhà ta có việc cầu kiến.”