Luật Giang Hồ
Chương 26 :
Ngày đăng: 15:13 19/04/20
Hamid Al Obaydi bị lôi vào phòng Hội đồng bởi hai người trong đội Vệ binh của Tổng thống rồi bị xô lên một chiếc ghế cách xa cái bàn dài mấy mét.
Ông ta ngẩng đầu lên và lần lượt nhìn mười hai người lập thành Hội đồng Lãnh đạo Cách mạng. Không một ai trong bọn họ để mắt tới ông ta, ngoại trừ vị Biện lý chính phủ.
Ông ta đã làm gì khiến cho những người này cương quyết định bắt ông ta ở biên giới, còng tay ông ta tống ông ta vào tù, bỏ ông ta ngủ trên nền đá và thậm chí không cho ông ta vào phòng vệ sinh?
Vẫn còn mặc bộ com lê như lúc qua biên giới, lúc này ông ta đang ngồi lên phần của chính mình.
Saddam đưa một bàn tay lên, và vị Biện lý Chính phủ mỉm cười.
Nhưng Al Obaydi không sợ Nakir Farra. Chẳng những ông ta vô tội đối với bất cứ sự vu cáo nào, ông ta còn có thông tin họ đang cần. Vị Biện lý Chính phủ từ từ đứng lên khỏi chỗ ngồi.
- Tên ông là Hamid Al Obaydi?
- Vâng, - Al Obaydi vừa trả lời vừa nhìn thẳng vào vị Biện lý Chính phủ.
- Ông bị buộc tội phản quốc và lấy trộm tài sản quốc gia. Ông bào chữa như thế nào?
- Tôi vô tội, và Allah sẽ làm chứng cho tôi…
- Nếu Allah phải làm chứng cho ông, tôi chắc chắn ngài sẽ sẵn lòng yêu cầu tôi hỏi ông vài câu đơn giản.
- Tôi sẽ hết sức vui lòng trả lời bất cứ điều gì.
- Khi ông từ New York trở về hồi đầu tháng, ông đã tiếp tục làm việc ở Bộ Ngoại giao. Có phải thế không? Và có phải một trong những trách nhiệm của ông là kiểm tra tình trạng mới nhất của chính phủ liên quan đến những biện pháp chế tài của Liên Hiệp Quốc?
- Vâng. Đó là một phần công việc của tôi với tư các Phó đại sứ ở Liên Hiệp Quốc.
- Đúng như thế. Và khi ông thực hiện các kiểm tra đó, ông đã biết một số món đã được bãi bỏ lệnh cấm vận. Tôi nói có đúng không?
- Vâng, ông nói rất đúng, - Al Obaydi quả quyết.
- Có phải một trong những món đó là cái tủ sắt?
- Phải, -Al Obaydi nói.
- Khi ông biết việc này, ông đã làm gì?
- Tôi đã điện thoại cho công ty Thuỵ điển chế tạo chiếc tủ sắt để biết chắc tình trạng mới nhất như thế nào, nhờ đó tôi có thể đưa sự việc vào bản phúc trình.
- Và ông đã khám phá ra điều gì?
Al Obaydi chợt do dự, không rõ vị Biện lý Chính phủ biết đến mức độ nào.
- Ông đã khám phá ra điều gì? - Farrar hỏi lại.
- Chiếc tủ sắt đã được một người tên Riffat lấy đi.
- Ông có biết người có tên Riffat này không?
- Không, tôi không biết.
- Rồi ông đã làm gì sau đó?
- Tôi gọi điện thoại cho Bộ Công nghiệp, vì tôi đinh ninh rằng họ chịu trách nhiệm về chiếc tủ sắt.
- Và họ đã nói gì với ông?
- Họ nói trách nhiệm đó không còn thuộc về họ nữa.
- Có phải họ cũng nói với ông trách nhiệm đã được giao cho ai? - vị Biện lý Chính phủ hỏi.
- Tôi không nhớ rõ.
- Thế thì để cho tôi thứ nhắc ông nhớ lại - hay là tôi sẽ gọi ông Bí thư thường trực là người ông đã nói chuyện điện thoại sáng hôm ấy.
- Tôi nghĩ có lẽ ông ta đã nói nó không còn thuộc trách nhiệm của họ nữa.
- Ông ta có nói trách nhiệm thuộc về ai hay không? Vị Biện lý nhắc lại.
- Tôi nghĩ ông ta đã nói hồ sơ đã được gởi đến Geneva.
- Ông nên biết ông Bí thư đã viết báo cáo xác nhận điều đó
Al Obaydi cúi đầu.
- Thế rồi, ngay sau khi ông biết hồ sơ được gửi đến Geneva, ông đã làm gì sau đó?
- Tôi đã gọi điện thoại cho Geneva và được cho biết ông Đại sứ không rảnh. Tôi liền nhắc là tôi đã gọi và xin ông ấy gọi lại. - Al Obaydi nói một cách tự tin.
- Ông thực sự tin ông Đại sứ sẽ gọi lại hay sao?
- Tôi đoán ông ấy sẽ gọi.
- Tôi không biết ông đang nói chuyện gì? - Al Obaydi rít lên.
- Thế thì trí nhớ của ông phải có một sai sót nữa, bởi vì trong thời gian ông đi vắng, khi ông vội vã trở về từ Paris để cảnh giác Tổng thống về mối nguy hiểm sắp xảy ra cho tính mạng của Người, ông đã nhận được một thông báo của công ty Franchard mà vì bức thư đề địa chỉ ông Đại sứ của chúng ta ở Paris nên cuối cùng nằm trên bàn của ông Thứ trưởng Ngoại giao.
- Tôi không có liên lạc với công ty Franchard…
- Tôi không có ý nói như vậy, - vị Biện lý nói trong lúc ông sải bước tới cách Al Obaydi chừng một mét. - Tôi chỉ có ý nói họ đã liên lạc với ông. Bởi vì họ đã gửi cho ông bản kê khai các khoản tiền gửi vào lấy ra gần đây nhất của ông với tên Hamid Al Obaydi, đề ngày 25 tháng 7 năm 1993, cho thấy tài khoán đã được trả vào một triệu đô la vào ngày 18 tháng 2 năm 1993.
- Không thể như thế được, - Al Obaydi nói với vẻ thách thức.
- Không thể như thế sao? - vị Biện lý vừa nói vừa ném một bản sao của bản kê khai trước mặt Al Obaydi.
- Cái này rất dễ giải thích. Gia đình Cavalli đang cố trả thù vì chúng ta đã không chịu trả đủ số tiền một trăm triệu đô la như đã hứa hẹn ban đầu.
- Trả thù, đó chính là ông nói. Tiền không phải là thực hay sao? Chẳng lẽ nó không hiện hữu? Đây chỉ là một mảnh giấy à? Một ảo tưởng của chúng tôi?
- Vâng, - Al Obaydi nói - Đó là sự thực.
- Như vậy có lẽ ông có thể giải thích tại sao một trăm nghìn đô la được rút ra khỏi tài khoản này một ngày sau khi ông đã viếng thăm công ty Franchard?
- Không thể như thế được.
- Lại một điều không thể nữa sao? Một ảo tưởng nửa của chúng tôi à? Thế thì ông đã trông thấy lệnh rút một trăm nghìn đô la, được gửi đến cho ông mấy ngày sau? Chữ ký trên đó rất giống chữ ký trên bản phúc trình về chế tài mà ông đã nhìn nhận là xác thực.
Vị Biện lý giơ hai bản tài liệu trước mặt Al Obaydi sát vào chóp mũi của ông ta. Ông ta nhìn vào hai chữ ký và nhận thức được những gì Cavalli đã làm. Vi Biện lý tuyên án tử hình trước cả khi Al Obaydi được phép giải thích.
- Và bây giờ chắc là ông sắp sửa yêu cầu Hội đống tín rằng cũng chính Cavalli đã giả mạo chữ ký của ông?
Một tiếng cười nhỏ từ từ chuyển quanh bàn và Al Obaydi tin chắc rằng vị Biện lý biết rõ ông ta chỉ nói sự thực.
- Tôi đã chán ngấy chuyện này, - người duy nhất trong phòng dám ngắt lời vị Biện lý lên tiếng.
Al Obaydi ngước lên với một cố gắng cuối cùng lôi cuốn sự chú ý của vị Tổng thống, nhưng ngoại trừ vị Biện lý Chính phủ.
Cả Hội đồng đang nhìn về phía đầu bàn và gật đầu đồng ý.
- Hội đồng có những vấn đề cấp bách hơn cần phai xem xét. - Ông vừa nói vừa vẫy một bàn tay như thể đang đập một con ruồi gây khó chịu.
Hai quân nhân liền bước tới và đưa Al Obaydi khỏi mắt ông.
° ° °
- Mọi việc dễ hơn nhiều so với những gì chúng ta chờ đợi - Cohen nói, sau khi họ đã qua khỏi trạm liềm tra cứu Iraq.
- Có lẽ hơi quá dễ, - Kratz nói.
- Thật là thú vị khi chúng ta có một người lạc quan và một người bi quan trong chuyến đi này, - Scott nói.
Sau khi Cohen đã cho xe chạy trên xa lộ, anh ta vẫn thận trọng không vượt quá tám mươi cây số giờ. Những chiếc xe tải chạy theo hướng ngược lại về phía Jordan ít khi có hơn hai ngọn đèn pha cháy sáng, khiến cho một đôi lẳn ở từ xa trông giống như mô tô, vì vậy thật là nguy hiểm khi vượt qua. Nhưng mắt anh ta cần phải hết sức cảnh giác đối với các chiếc xe tải chạy phía trước, đối với chúng, một ngọn đèn đỏ phía sau đã là một sự xa xỉ.
Kratz vẫn luôn luôn nghĩ cuộc hành trình gần năm trăm cây số từ biên giới Baghdad quá dài không thể chạy một mạch, vì thế ông đã quyết định họ sẽ nghỉ ngơi một lát khi còn cách thủ đô của Iraq khoảng năm mươi cây số.
Scott hỏi Cohen lúc nào theo ý anh ta sẽ đến nơi nghỉ.
- Giả sử tôi không đâm đầu vào một chiếc xe tải bị phế bỏ đậu ở giữa đường hoặc lọt thỏm xuống một lỗ nước xói, tôi nghĩ chúng ta sẽ đến đó vào khoảng bốn, năm giờ là chậm nhất.
- Tôi không thích thấy tất cả những chiếc xe nhà binh đó chạy trên đường. Anh nghĩ họ có thể làm gì? - Kratz hỏi, ông ta đã không chợp mắt kể từ khi họ qua biên giới.
- Một tiểu đoàn đang chuyển quân, tôi đoán thế, thưa ông. Đối với tôi, điều đó không có vẻ bất thường, và tôi nghĩ chúng ta không cần phải lo ngại họ trừ phi họ đi cùng hướng với chúng ta.
- Có lẽ anh nói đúng, - Kratz báo.
- Nếu ông qua biên giới một cách hợp pháp, chắc là ông đã không suy nghĩ như thế.
- Có lẽ… Nhưng, Trung sĩ, - Kratz vừa nói vừa quay sự chú ý trở lại Cohen, - anh hãy cho tôi biết ngay lúc anh bất cứ điều gì mà anh cho là bất thường.
- Có phải ông muốn nói, như một người phụ nữ đáng nhìn lại một lần thứ hai?
Kratz không bình luận. Ông quay sang hỏi Scott một câu chỉ để nhận thấy anh lại ngủ gật. Ông ganh tỵ tính dễ ngủ của Scott ở bất cứ nơi đâu và vào bất cứ lúc nào, đặc biệt khi đang lâm vào tình trạng căng thẳng như thế này.
Trung sĩ Cohen tiếp tục lái xe suốt đêm, không phải luôn luôn theo một đường thẳng, vì anh ta thỉnh thoảng phải tránh một chiếc xe tăng bị đốt cháy hoặc một hố bom lớn do chiến tranh để lại. Họ cứ liên tục di chuyển qua những thị trấn nhỏ và những thôn làng đang ngủ yên tựa hồ không có người ở, cho tới lúc bốn giờ mấy phút, khi Cohen tách khỏi xa lộ và đì vào một con đường mòn rất có thể chỉ được lưu thông một chiều. Anh ta lái xe trong hai mươi phút nữa, cuối cùng dừng lại khi con đường chấm dứt tại một ngọn đồi cao.
- Ngay cả một coin chim kền kền cũng không tìm được chúng ta ở đây, - Cohen nói trong lúc anh ta tắt máy xe - Đại tá có cho phép hút một điếu thuốc và chợp mắt một chút?
Kratz gật đầu và quan sát Cohen nhảy ra khỏi buồng lái và đưa cho Aziz một điếu thuốc trước khi biến dạng vào phía sau một cây cọ. Ông kiểm tra miền thôn dã chung quanh một cách cẩn thận, và quyết định Cohen nói đúng.
Khi ông trở lại xe, ông nhận thấy Aziz và viên trung sĩ đã ngủ, trong lúc Scott đang ngồi trên một ngọn đồi ngắm cảnh, mặt trời mọc về phía Baghdad.
- Thật là một cảnh tượng thanh bình. - anh nói trong lúc Kratz ngồi xuống bên cạnh anh, hầu như anh đang nói với một người nào khác. - Chỉ có Chúa mới có thể tạo nên một cảnh mặt trời mọc đẹp như thế.
- Có điều gì đó không ổn, - Kratz khẽ nói.