Luật Giang Hồ
Chương 25 :
Ngày đăng: 15:13 19/04/20
Phiên họp khẩn cấp thứ hai, giữa Bộ trưởng Ngoại giao và viên Thứ trưởng diễn ra vào sáng thứ ba, cũng chỉ được báo trước trong một thời gian ngắn. Lần này là một cú điện thoại trực tiếp hết sức bất ngờ từ Tổng thống khiến cho cả hai viên Bộ trưởng và Thứ trưởng phải chạy ngay tới dinh.
Tất cả những gì Hannah có thể tìm hiểu được qua mấy cú điện thoại gọi tới gọi lui trong buổi sáng hôm ấy là vào một lúc nào đó người em trai cùng mẹ khác cha của Saddam đã gọi về từ Geneva, và kể từ lúc đó, viên Thứ trưởng Ngoại giao dường như quên bẵng bản phúc trình mà ông ta đang chuẩn bị về vụ Mỹ oanh tạc đại bản doanh của Mukhbarat. Ông ta hoảng hốt chạy ra khỏi phòng, bỏ mặc những giấy tờ mật vung vãi khắp mặt bàn làm việc.
Hannah vẫn ngồi ở bàn của nàng với hy vọng nàng sẽ thu lượm thêm một thông tin nào đó. Trong lúc cả hai viên Bộ, Thứ trưởng ở trong dinh, nàng tiếp tục kiểm tra kỹ các hồ sơ lưu trữ cũ, biết rằng giờ đây nàng đã có đủ tài liệu để chất đầy mấy tủ hồ sơ ở đại bản doanh Mossad, nhưng không có ai để cho nàng chuyển giao.
Hai viên Bộ, Thứ trưởng từ dinh trở về vào cuối buổi chiều, và viên Thứ trưởng Ngoại giao có vẻ nhẹ nhõm khi thấy cô Saib vẫn còn ngồi ở bàn làm việc.
- Tôi cần lập một bản phúc trình về việc đã được thoả thuận trong phiên họp sáng hôm nay với Tổng thống, - ông ta nói, - và tôi không cần phải nhấn mạnh tầm quan trọng về sự bí mật trong vấn đề này. Sẽ không quá đáng chút nào khi tôi bảo cô rằng nếu bất cứ điều gì mà tôi kể cho cô sẽ bị tiết lộ ra ngoài công chúng, thì cả hai chúng ta sẽ chấm dứt cuộc đời trong nhà tù, hoặc tồi tệ hơn thế nữa.
Hannah nói trong lúc nàng mang kính trở lại:
- Tôi hy vọng trong suốt thời gian qua đã không bao giờ khiến cho ông Thứ trưởng phải lo ngại.
Viên Thứ trưởng chăm chú nhìn nàng và bắt đầu đọc cho nàng viết với tốc độ nhanh:
"Tổng thống đã mời Bộ trưởng Ngoại giao và tôi đến dự một phiên họp mật ở dinh sáng nay - cố đề đúng ngày hôm nay. Barazan Al - Tikriti, vị đại sứ tin cậy của chúng ta ở Geneva, đã tiếp xúc Tổng thống đêm vừa qua để báo cho Tổng thống rằng, sau nhiều tuần lễ kiên trì theo dõi, ông ta đã khám phá ra một âm mưu do một nhóm Do thái muốn ấy trộm chiếc tủ sắt khỏi Thuỵ điển và sử dụng làm phương tiện xâm nhập bất hợp pháp vào Iraq. Chiếc tủ sắt sắp sửa được giao tới Baghdad ngay sau khi bãi bỏ lệnh cấm vận theo nghị quyết 661 của Hội đổng Bảo an Liên Hiệp Quốc. Tổng thống đã ra lệnh giao cho Đại tướng Hamid trách nhiệm thương lượng với bọn khủng bố - Hannah nghĩ như vậy khi trông thấy viên Thứ trưởng rùng mình - trong lúc ông Bộ trưởng Ngoại giao được yêu cầu xem xét kỹ vai trò do một nhân viên chính của ông đóng trong âm mưu đặc biệt này, đó là Hamid Al Obaydi.
"Đại sứ của chúng ta ở Geneva đã khám phá ra rằng Al Obaydi vừa viếng thăm hãng cơ khí Svenhalte AC ở Kalmar, Thuỵ điển, và ngày thứ hai, 28 tháng 6, mà không được bất cứ thượng cấp nào của ông ta chí đạo làm việc đó. Trong cuộc viếng thăm đó, ông ta đã được thông báo về vụ chiếc tủ sắt bị lấy trộm và đang được chờ đến Baghdad. Sau chuyến đi đến Kalmar, Al Obaydi ở lại đêm tại Ban Lợi ích ở Paris, khi ông ta có mọi cơ hội để thông báo Geneva hoặc Baghdad về âm mưu của bọn Do thái, nhưng ông ta đã không hề cố gắng làm việc đó.
"Al Obaydi rơi khỏi Paris sáng hôm sau và, mặc dù chúng ta biết ông ta đã đáp một chuyến bay đi Jordan, ông ta vẫn chưa xuất hiện ở biên giới. Tổng thống đã ra lệnh rằng nếu Al Obaydi qua bất cứ một biên giới quốc gia nào của chúng ta, ông ta phải bị bắt và được đưa thẳng đến Đại tướng Hamil ở đại bản doanh của Hội đổng Lãnh đạo Cách mạng".
Cây bút chì của Hannah lướt qua các trang sổ tốc ký, trong lúc nàng cố gắng theo kịp viên Thứ trưởng.
"Chiếc tủ sắt, - viên Thứ trưởng Ngoại giao nói tiếp, - hiện nay đang được chở trên chiếc xe nhà binh cũ, và theo dự kiến nó sẽ đến biên giới Jordan trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ sắp tới".
"Tất cả các viên chức hài quan đã nhận được một chỉ thị nhằm để cho chiếc tủ sắt là tài sàn riêng của Tổng thống, và vì vậy khi nó đến biên giới, nó phải được ưu tiên tiếp tục cuộc hành trình tới Baghdad.
"Đại sứ của chúng ta ở Geneva, sau một cuộc nói chuyện khá dài với ông - viên Thứ trưởng xem lại sổ tay, - Perdersson, đã tin chắc rằng nhóm người hộ tống chiếc tủ sắt là nhân viên CIA, Mossad, họ rất có thể cả ASA của Anh. Cũng như Tổng thống, Đại sứ nghĩ rằng lợi ích duy nhất của bọn xâm nhập là giành lại bản Tuyên ngôn Độc lập. Tổng thống đã ra lệnh rằng tài liệu đó không được dời khỏi chỗ của nó trên bức tường của phòng Hội đồng, bởi vì việc này có thể báo động cho bất cứ nhân viên nội gián nào thông tin cho nhóm khủng bố vào nước".
"Hai mươi người trong đội phòng vệ đặc biệt của Tổng thống đã lên đường đến biên giới Jordan. Họ sẽ chịu trách nhiệm liên tục theo dõi quá trình vận chuyển của chiếc tủ sắt và sẽ báo cáo trực tiếp cho Đại tướng Hamil.
"Ngay sau khi bọn điệp viên phương Tây đã bị bắt và tống vào nhà giam, báo chí thế giới sẽ được thông tin rằng mục đích của bọn chúng là ám sát Tổng thống. Tống thống sẽ lập tức xuất hiện trước công chúng và trên vô tuyến truyền hình, và sẽ đọc một bài diễn văn tố cáo bọn hiếu chiến Mỹ và Do thái. Sayedi tin rằng cá bọn Mỹ lẫn bọn Do thái đều sẽ không đời nào nhìn nhận mục đích thực sự của vụ tập kích này, nhưng bọn chúng sẽ không thể nào bác bó lời khẳng định của Tổng thống. Sayedi nghĩ toàn bộ tình tiết này có thể biến thành một thắng lợi về mặt quốc tế bởi vì nếu vụ mưu sát được loan báo vào cùng một ngày mà Tổng thống công khai đốt bản Tuyên ngôn Độc lập, thì bọn Mỹ lại càng khó trả đũa hơn.
"Bắt đầu từ ngày mai, Tổng thống yêu cầu một bản cập nhật tình hình mỗi cuối sáng lúc chín giờ và mỗi buổi chiều lúc sáu giờ. Cá Bộ trưởng Ngoại giao lẫn bản thân tôi phải báo cáo trực tiếp cho Tổng thống. Nếu Al Obaydi bị tóm, Tổng thống cần phải được thông báo ngay tức khắc, bất cứ giờ giấc nào, đêm hoặc ngày".
Cây bút chì của Hannah đã không ngừng nguệch ngoạc trên các trang giấy trong gần hai mươi phút. Cuối cùng khi viên Thứ trưởng kết thúc, nàng cố gắng hiểu hết ý nghĩa của thông tin mà giờ đây nàng có được.
- Tôi cần một bản dự tháo của phúc trình này càng nhanh càng tốt, không được đánh thêm bản khác, không được ghi âm gì cả và tất cả các ghi chép bằng tốc ký của cô phải được xé nhỏ ngay sau khi bản phúc trình được giao cho tôi.
Hannah gật đầu trong lúc viên Thứ trưởng Ngoại giao nhấc máy điện thoại lên và quay số nội bộ của cấp trên ông ta.
Nàng trở về phòng và bắt đầu đánh máy lại một cách từ từ những gì nàng đã chép vào sổ, và đồng thời cố gắng ghi nhớ những điểm chính yếu. Bốn mươi lăm phút sau, nàng đặt một bản phúc trình độc nhất trên bàn của viên Thứ trưởng.
Ông ta đọc bản dự thảo một cách cẩn thận, thinh thoảng tự tay ghi thêm một vài từ. Khi ông ta đã hài lòng nhận thấy bản phúc trình bao hàm đầy đủ phiên họp vừa diễn ra sáng hôm nay. Ông ta đi ra hành lang và gặp vị Bó trưởng Ngoại giao.
Hannah trở về bàn, biết rằng nhóm người mang chiếc tủ sắt khỏi Thuỵ điển đang tiến dần vào cái bẫy của Saddam, và nếu họ đã nhận được tấm bưu thiếp của nàng…
° ° °
Khi Al Obaydi đến Jordan. Ông ta không thể không cảm thấy một niềm vui chiến thắng.
Ngay sau khi hoàn tất thủ tục hải quan ở phi trường Queen Alia và bước ra ngoài đường, ông ta chọn chiếc taxi hiện đại nhất có thể tìm thấy được. Chiếc Chevy cũ kỹ từ hồi thập niên bảy mươi không có máy điều hoà không khi và đồng hồ chỉ con số 187.000 dặm. Ông ta yêu cầu người tài xế đưa ông ta đến biên giới Iraq càng nhanh càng tốt…
- Tại sao mình không chạy đại lên trước và thử xoay sở? - Cohen nói - Một vài đô la cũng có thể…
- Không, - Kratz nói - Chúng ta không được lôi cuốn sự chú ý quá đáng bất cứ lúc nào kể từ đây cho đến khi chúng ta trở qua biên giới này.
Suốt tiếng đồng hồ sau đó trong lúc chiếc xe tải chỉ di chuyển về phía trước vài trăm mét, Kratz rà xét lại các kế hoạch của ông một lần nữa, bao gồm bất cứ tình thế nào ông có thể nảy sinh khi họ đã đến Baghdad.
Một tiếng đồng hồ nữa trôi qua, và Scott cám ơn ngọn gió đêm hiu hiu thổi giúp anh ngủ gà ngủ gật, mặc dù anh nhận thức rằng chẳng bao lâu sau anh sẽ phải quay kính cửa sổ lên nếu anh muốn khỏi bị đóng băng. Anh bắt đầu trôi giạt vào một giấc ngủ chập chờn, tâm trí anh chuyển đổi giữa Hannah và bản Tuyên ngôn, và nếu được phép lựa chọn, anh sẽ mang thứ nào về nhà. Anh nhận thức rằng Kratz rõ ràng là lý do khiến anh đã tình nguyện tham gia vào đội khi cơ may sống sót hết sức mỏng manh.
- Trò đùa rồi sẽ làm nên trò trống gì? Cohen khẽ hỏi.
Scott chợt tỉnh giấc và nhanh chóng tập trung vào một nhân viên mặc đồng phục đang nói chuyện với người tài xế của chiếc xe tải ở trước họ.
- Đó là một nhân viên hải quan, - Kratz nói - Anh ta chỉ kiểm tra xem các tài xế có đủ giấy tờ hợp lệ để qua biên giới hay không.
- Phần đông đám này chỉ có hai mảnh giấy màu đỏ dài khoảng mười hai phân, rộng tám phân, - Cohen nói.
- Anh ta đến đây rồi, - Kratz nói - Hãy cố làm bộ chán ngán như anh ta vậy.
Viên hải quan thong thả bước tới buồng lái và thậm chí không nhìn Cohen trong lúc anh ta chìa một bàn tay qua khung cửa sổ mở.
Cohen đưa các thứ giấy tờ mà các chuyên gia ở Langley cung cấp. Viên hải quan xem xét kỹ rồi từ từ bước quanh chiếc xe tải. Khi anh ta trở lại phía tài xế, anh ta lớn tiếng ra lệnh cho Cohen mà không ai hiểu nổi.
Cohen nhìn về phía Kratz, nhưng một giọng nói từ phía sau cứu thoát họ.
- Anh ta nói mình phải lên phía trước hàng xe.
- Tại sao? - Kratz nghi ngờ hỏi.
Aziz liền lập lại cáu hỏi với viên hải quan:
- Chúng ta đã được quyền ưu tiên nhờ bức thư do Saddam ký.
- Và chúng ta phải cám ơn ai về việc đó? - Kratz hỏi vẫn chưa hết nghi ngờ.
- Bill OReilly, - Scott nói - Ông ta đã rất lấy làm tiếc không thể theo chúng ta trong chuyến đi này. Nhưng tôi đã cho ông ta biết không thể kiếm được bia Guinness trong thùng ở bất cứ nơi nào trong đất nước Iraq.
Kratz gật đầu, và trung sĩ Cohen thi hành chỉ thị của viên hải quan, tự cho phép mình lấn sang đường dành riêng cho xe chạy ngược lại trong lúc anh ta bắt đầu cuộc hành trình gập ghềnh dài hơn ba cây số tới phía trước hàng xe. Nhiều chiếc xe được phép chạy về hướng Amman trên phía bên kia đường đã phải ngoặt gấp lên trên lề bằng xà bần nếu không muốn đụng đầu với Bà Bertha.
Trong lúc Cohen chạy mấy mét cuối cùng đến trạm gác qua biên giới, một nhân viên vừa giận dữ chạy ra khỏi trạm vừa huơ nắm tay. Một lần nữa Aziz cứu thoát họ bằng cách đề nghị Kratz cho anh ta xem bức thư.
Sau khi nhìn qua chữ ký, quả nắm nhanh chóng thành một cái chào.
- Hộ chiếu, - anh ta chỉ thốt lên một cách vắn tắt.
Kratz liền đưa ba hộ chiếu Thuỵ điển và một hộ chiếu Iraq với hai mảnh giấy đỏ đính vào trang đầu tiên của mỗi hộ chiếu.
- Đừng bao giờ trả quá lệ phí chính thức, - Ông đã báo trước cho mọi người, - Như thế chỉ khiến cho bọn họ nghi ngờ.
Bốn cuốn hộ chiếu được nhân viên hải quan mang vào một căn phòng nhỏ, xem xét kỹ, đóng dấu và hoàn trả. Thậm chí anh ta còn tặng họ một nụ cười. Rào chắn phía Jordan được giở lên và chiếc xe tải bắt đầu cuộc hành trình hơn một nghìn năm trăm mét về phía trạm kiểm soát của Iraq.
--- ------ ------ ------ -------
1 Tương đương với 35 độ C.