Ly Hôn
Chương 2 :
Ngày đăng: 06:22 19/04/20
“Nuôi con như cục nợ vậy,” Tưởng Khâm nói, “Lên ngồi đi.”
Lê Mông bò lên giường, ngồi cạnh Tưởng Khâm, nhìn quyển tiểu thuyết tiếng Đức trong tay Tưởng Khâm.
Lê Mông với Tưởng Khâm không có quan hệ huyết thống, nhưng cả hai đều có những đặc điểm giống nhau kinh người: tính khí, tính cách, đam mê, diện mạo… Hơn nữa Tưởng Khâm còn có chỉ số thông minh cực kỳ cao, mà Lê Mông cũng không thua kém, bây giờ đã nhảy được lên cấp ba.
Bạn bè xung quanh hay nghi ngờ họ là bà con thất lạc nhiều năm, hoặc là Lê Mông chính là Tưởng Khâm năm mười mấy tuổi tái sinh. Nhưng Cận Viêm đã nhiều lần phủ nhận những khả năng này, mặt làm ra vẻ “đây chính là duyên phận đấy mấy người ngớ ngẩn kia ạ”.
Lê Mông xem được một lúc rồi nói: “Hung thủ chính là giáo viên trượt tuyết.”
“Đừng có mà mới xem được một nửa đã khoe khoang mình biết cả câu chuyện, coi chừng đuổi ra đấy.”
“Mẹ nhẫn tâm với đứa con thân sinh của mình như vậy sao Tưởng Khâm đồng chí?” Lê Mông trách móc: “Không thèm nấu cơm mà bỏ nhà ra đi, có tí chuyện vậy cũng so đo nhau.”
Tưởng Khân nhìn bé không nói gì.
“… Không phải thân sinh nhưng hơn hẳn thân sinh,” Lê Mông lập tức vươn đuôi lên quẫy quẫy hỏi: “Tính khi nào về nhà hở Tưởng Khâm đồng chí? Có muốn con áp giải Cận Viêm đồng chí tới trước cửa nhận tội không? Thế cũng được nhưng con nói này, bây giờ mà mẹ về có thể thưởng thức đứa con đẹp trai dễ thương nũng nịu này múa thoát y lộng lẫy bồi thường trọn gói, sau đó đã có thể ăn cơm! Ăn cơm đó! Tâm động không bằng hành động, hay là mẹ theo con về luôn đi!”
“Lê Mông đồng chí,” Tưởng Khâm nói, “Con với Cận Viêm đúng là cha con ruột, không thể giả được, lừa đảo cũng giống nhau như vậy.”
Anh đang mặc áo tăm màu trắng của khách sạn, đôi mắt không bị cặp kính che lại càng sáng rực hơn, lông mi thon dài khiêu gợi, vừa nhìn là biết không chịu thua Lê Mông một bước nào.
“Con không có miếng thịt lồi đằng trước, lại càng không phải chuẩn 36D, cho dù có múa thoát y cũng không ma nào thèm xem. Với lại con có nhảy cũng không thể giấu được thân là học sinh mà lại trốn học bỏ trường, hẳn là phải đem con về trường cho chủ nhiệm nhảy dựng lên.”
Lê Mông líu lưỡi một hồi, chợt bác bỏ: “Đừng mà, cô giáo sẽ yêu con mất.”
“So với chuyện múa thoát y, con phải buồn vì chuyện khác nhiều hơn,” Tưởng Khâm nói: “Sau khi ta với Cận Viêm ly hôn, con định ở với ai?”
Lê Mông biết cuộc nói chuyện này đã không còn hy vọng gì nữa rồi.
Cũng giống như những đứa trẻ khác khi được hỏi “cha và mẹ ly hôn con muốn ở với ai”, Lê Mông chỉ có duy nhất một suy nghĩ trong đầu là: Shit! Ông không muốn trả lời!
“Ta hy vọng con ở với Cận Viêm,” Tưởng Khâm nói.
“—-A? Mẹ không cần con?”
“Cận Viêm là cha thân sinh của con.”
“Nhưng mẹ là mẹ con mà!”Lê Mông nhanh mồm nhanh miệng đáp lại, “Không phải mẹ thân sinh nhưng hơn hẳn mẹ thân sinh!”
Tưởng Khâm nhìn chăm chú bé một lúc, thở dài.
“Lê Mông,” anh mệt mỏi nói, “Con biết trên danh nghĩa con có 7% cổ phần của công ty giải trí Thời Tinh đúng không?”
“Thì sao……”
“Lầm bầm lầm bầm lầm bầm…..”
Cận Viêm giận dỗi nói: “Đúng là nghịch trời, còn lầm bầm nữa thì cẩn thận tháng sau không có tiền tiêu vặt! Nói cho con biết, lúc trước Tưởng Khâm nói với ta là cứ lầm bầm như vậy mẹ con rất muốn đánh người, bây giờ ta đã biết cảm giác này là thế nào!”
Lê Mông vừa muốn hừ một cái, bỗng nhiên nhớ ra trong nhà không còn Tưởng Khâm nữa, lỡ như bị bạo hành cũng không có ai nhảy ra can, thế là lập tức ngậm miệng.
Cận Viêm ngồi thở hổn hển cả ngày, lẩm bẩm: “Chuyện này không thể cứ để như thế được!”
Hắn nhặt di động lên, ngón cái xẹt qua xẹt lại trên màn hình, vẻ mặt mờ mịt không biết đang nghĩ gì. Một lúc lâu sau mới hạ quyết định, đứng lên nói: “Ta đi ra ngoài một lúc, con ngủ sớm đi, sáng mai không được trốn học nữa.”
“Ba… Ba đi đâu?”
Cận Viêm như một con sói bị thương, nói: “Ông đây không sợ ly hôn, ông đây cái gì cũng không sợ! Nhưng ông đây nhất định phải biết vì sao ly hôn!”
[1] “Bối ảnh” của Chu Tự Thanh: Nói về cảm xúc của đứa con trai đối với bóng lưng của cha mình.)
BÓNG DÁNG SAU LƯNG
(BỐI ẢNH)
Chu Tự Thanh (1898-1948)
Chu Tự Thanh tự là Bội Huyền, người làng Thiệu Hưng, tỉnh Chiết Giang, sinh năm 1898, bệnh mất tại Bắc Kinh (1948). Tốt nghiệp khoa Văn-Triết trường Đại học Bắc Kinh (1920), ông dạy văn chương tại Hàng Châu, tỉnh Chiết Giang, và tại Dương Châu, tỉnh Giang Tô. Từ 1925 đến khi mất, dạy văn chương Trung Quốc tại Đại học Thanh Hoa. Những dịp nghỉ hè, ông sang châu Âu học tập. Tác phẩm rất nhiều, đủ thể loại…
Trích trong tập truyện Bối ảnh (xuất bản năm 1928), Bóng dáng sau lưng như có hơi hướm bức tranh thủy mặc Trung Hoa. Ở đó, chân dung người cha không được vẽ lại với cái nhìn thẳng vào gương mặt, vậy mà tưởng như ta có thể nhìn thấy diện mạo người cha ấy, ngờ ngợ như đã có lần gặp ông đâu rồi. Phải, cái dáng dấp hơi thô kệch nhưng rất đỗi tỉ mỉ trong những cử chỉ dịu dàng khi chăm chút cho đứa con.
Bố và tôi không gặp nhau đã hơn hai năm nay. Không bao giờ tôi quên được dáng người của bố nhìn từ sau lưng.Mùa đông năm ấy bà nội qua đời nhằm lúc bố mất việc. Quả tình họa vô đơn chí. Từ Bắc Kinh tôi ghé Từ Châu, định bụng gặp bố để về quê lo việc tang ma. Đến Từ Châu, nhìn sân nhà ngổn ngang đồ đạc, lại chạnh nhớ bà, tôi không cầm được nước mắt. Bố bảo: “Chuyện đã đến thế cũng chẳng phải buồn rầu. Còn may chưa đến nỗi cùng đường.”
Về quê nhà, cầm cố đồ đạc vẫn không đủ đâu vào đâu, bố phải vay tiền mượn bạc lo liệu ma chay. Những ngày ấy, cảnh nhà thực ảm đạm, phần vì tang tóc, phần vì bố mất việc.
Làm đám xong, bố đi Nam Kinh tìm kế mưu sinh, tôi về Bắc Kinh tiếp tục học hành. Hai bố con đi cùng một chuyến. Tới Nam Kinh, bè bạn tôi kéo đi chơi, cầm chân hết một ngày. Sáng hôm sau tôi qua sông đi Phố Khẩu, chiều đáp tàu hỏa đi Bắc Kinh. Bố bận việc, bảo không tiễn chân được. Anh dọn phòng của quán trọ vốn quen đường thuộc sá, bố nhờ đưa tôi đi. Bố dặn dò anh hai ba lượt, chu đáo cặn kẽ. Rồi bố lại phân vân do dự hồi lâu, e rằng anh ta thiếu cẩn trọng. Thực tình năm ấy tôi đã hai mươi tuổi đầu, từng lui tới Bắc Kinh một đôi lần, bố đâu phải bận lòng quá như vậy. Băn khoăn hồi lâu, rốt cuộc bố nhất định đích thân đưa tôi lên đường. Tôi cản mãi, bất tất phải thế. Nhưng bố bảo: “Không sao mà. Anh ấy đi thì chẳng tiện.”
Hai bố con qua sông đến ga. Tôi mua vé còn bố coi hành lý. Đồ đạc nhiều, phải tốn chút ít tiền trà nước cho mấy người khuân vác. Bố lại mất công kỳ kèo mặc cả với họ. Lúc ấy tôi cho rằng mình lanh lợi lắm mà bố thì thiếu hoạt bát, ắt phải có tôi xen vô mới được. Nhưng rồi bố cũng ngã giá xong và đưa tôi lên tàu. Bố chọn cho tôi một chỗ gần cửa sổ, căn dặn tôi dọc đường phải cẩn trọng, ban đêm phải coi chừng, kẻo mà cảm lạnh. Bố còn gửi gắm anh phục vụ trên toa chăm sóc, giúp đỡ tôi. Tôi nghĩ bụng sao mà bố lẩm cẩm thế, mấy người phục vụ này chỉ biết có tiền, dặn họ cũng bằng thừa. Vả lại tôi nay đã lớn, há không xoay xở một mình được ư? Chao ôi, bây giờ nhớ lại, sao hồi ấy tôi “thông minh” đến thế!
Tôi nói: “Bố ơi, bố về đi.” Bố nhác trông ra ngoài toa, bảo: “Con ngồi đây, chớ đi đâu, để bố mua mấy trái quít.” Nhìn xa, bên ngoài hàng rào chắn các bậc thềm lên xuống của sân ga, tôi thấy có mấy người bán buôn vặt vãnh chi đó. Đến được chỗ họ phải băng qua đường ray, leo qua hàng rào, rồi nhảy xuống. Bố người đẫy đà, tới được đó mà mua vài trái quít thì mệt lắm. Tôi muốn đi thay nhưng bố không chịu, đành để bố đi vậy. Tôi thấy bố đội cái nón vải đen nhỏ, mặc áo ngắn đen, choàng ra ngoài manh áo xanh đen vì đang chịu tang bà tôi. Bố lom khom đi về phía đường ray. Bước qua đường ray rồi leo qua rào cũng chẳng dễ gì. Bố bám vào phía trên hàng rào và đu người lên, tấm thân đẫy đà nghiêng sang bên trái, vất vả làm sao. Nhìn dáng bố phía sau lưng, mắt tôi bỗng nhòa lệ. Tôi vội vàng lau nước mắt, sợ bố và người ta bắt gặp. Khi ngước nhìn qua cửa sổ toa tàu, tôi thấy bố cầm trong tay mấy trái quít chín đỏ. Lúc sắp băng qua đường ray, bố để quít dưới chân hàng rào, rồi khó nhọc leo qua, xong lại cầm mấy trái quít đi lên thềm ga. Bố sang đến bên này, tôi lật đật xuống đón. Bố theo tôi leo lên toa, rũ bụi đất bám trên áo, nom ra vẻ bằng lòng. Lát sau, bố bảo: “Thôi, bố về nhé. Tới nơi nhớ biên thư bố hay.” Bố đi, tôi cũng xuống dõi mắt trông theo. Được mấy bước, quay lại thấy tôi còn đứng đó, bố giục: “Lên toa ngồi đi con. Trển đâu có ai!”
Tôi vẫn đứng yên tại chỗ, đến khi bóng dáng bố đã nhập nhòa vào đám đông tôi mới trở về toa, nước mắt lại trào ra.
Mấy năm gần đây hai bố con cứ phải bôn ba kiếm sống. Cảnh nhà mỗi lúc một suy sụp hơn. Bố từ thuở nhỏ đã phải sớm tự lập mưu sinh và cũng đã gầy dựng được chút sự nghiệp. Ngờ đâu đến buổi xế chiều lại khốn đốn thế này. Bà qua đời, đã quẫn bách lại càng thêm quẫn bách, và bố không tự kềm chế được. Tâm tư u uất, chuyện vặt vãnh trong nhà cũng đủ làm bố nổi giận. Lâu ngày bố đối xử với tôi có khác hơn khi trước.
Nhưng mới hai năm nay không gặp lại nhau, bố đã quên hết những chuyện chẳng hay ho gì đối với tôi, mà chỉ nhớ tôi, nhớ đám cháu nội. Sau khi tôi về Bắc Kinh, bố viết thư bảo tôi rằng: “Bố trong người cũng khỏe, hiềm hai vai nhức mỏi nhiều, cầm cái chén đôi đũa cũng khó khăn. Ngày đi chắc cũng sắp rồi…” Đọc tới đó, nước mắt tôi bỗng tuôn trào. Qua màn lệ nhạt nhòa, tôi hình dung bóng dáng sau lưng của bố, cái dáng đẫy đà trong chiếc áo khoác ngoài xanh đen, đội cái nón đen. Hỡi ôi, biết đến bao giờ mới nhìn thấy bố nữa!
LÊ ANH MINH