Mật Mã Da Vinci
Chương 51 :
Ngày đăng: 01:02 22/04/20
Chiếc Hawker đang trong giai đoạn tiếp đất cuối cùng.
Simon Edwards - quan chức Điều hành Dịch vụ tại sân bay Biggin Hill Executive - đi tới đi lui trong đài quan sát, nheo mắt nhìn lo âu về đường băng ướt mưa. Ông chẳng bao giờ ưa bị đánh thức sớm vào sáng thứ bẩy, nhưng đặc biệt khó chịu khi bị gọi đến để giám sát việc bắt giữ một trong những khách hàng xộp nhất của mình. Ngài Leigh Teabing không chỉ trả cho sân bay Biggin Hill tiền thuê cái hăng-ga(1) riêng, mà còn cả một khoản "phí hạ cánh"cho mỗi lần đến và đi đều đặn của ông. Thông thường, 8ân bay này được báo trước lịch hành trình của Teabing và có thể tuân theo một thủ tục nghiêm ngặt đối với những lần đến của ông. Teabing thích mọi sự phải được thực hiện đúng như thế. Chiếc limousine có thể kéo dài mang nhãn hiệu Jaguar làm theo đơn đặt hàng của khách mà ông giữ trong hăng-ga phải luôn đầy xăng, lau rửa bóng lộn, và một tờ Thời báo Lonlon trong ngày để sẵn ở ghế sau. Một nhân viên hải quan đợi sẵn chiếc máy bay tại hăng-ga để xúc tiến việc kiểm tra hành lý và tài liệu bắt buộc. Thi thoảng, những nhân viên hải quan đã nhận những khoản tiền boa lớn từ Teabing để lờ đi việc vận chuyển một số đồ hữu cơ vô hại - hầu hết là thức ăn xa xỉ - ốc sên Pháp, một loại phomat Requefort đặc biệt không chế biến, một vài loại hoa quả nào đó. Vả chăng nhiều luật của hải quan cũng vô lý, và nếu sân bay Biggin Hill không chiều ý khách của mình thì chắc chắn các sân bay cạnh tranh sẽ hứng ngay. Teabing được đáp ứng những gì ông ta muốn ở đây, tại sân bay Biggin Hill và những nhân viên thì thu được lợi lộc.
Lúc này, Edward cảm thấy thần kinh căng thẳng khi nhìn chiếc phản lực tiến vào. Ông tự hỏi phải chăng khuynh hướng hào phóng của Teabing, cách nào đó, đã làm cho ông ta gặp rắc rối; nhà chức trách Pháp dường như quyết tâm ngăn chặn ông. Edward còn chưa được cho bỉết là ông bị kết những tội gì nhưng rõ ràng chúng rất nghiêm trọng. Theo yêu cầu của nhà chức trách Pháp, cảnh sát Kent ra lệnh cho nhân viên kiểm soát không lưu đánh điện bằng rađiô cho phi công của chiếc máy bay Hawker và yêu cầu anh ta đến thẳng ga hành khách thay vì nhà chứa máy bay riêng của Teabing. Viên phi công đã đổng ý rõ ràng anh ta tin câu chuyện khó tin về vụ rò rỉ khí ga.
Cho dù cảnh sát Anh không thường mang vũ khí, nhưng do tính nghiêm trọng của tình hình nên vẫn xuất hiện một đội được trang bị vũ khí. Tám cảnh sát với súng ngắn đứng ở bên trong ga hành khách, chờ lúc động cơ máy bay dừng hẳn. Đến lúc đó người phục vụ đường băng sẽ đặt những cái nêm an toàn dưới lốp xe để - máy bay không còn dịch chuyển được nữa.
Sau đó cảnh sát xuất hiện và khống chế những người trên máy bay cho đến khi cảnh sát Pháp đến xử lý tình hình.
Chiếc Hawker đã xuống thấp, đang bay là là trên ngọn cây phía tay phải họ. Simon Edwards đi xuống cầu thang để quan sát việc hạ cánh ngang tầm đường băng. Toán cảnh sát Kent đã ở tư thế sẵn sàng, vừa vặn khuất lầm nhìn, và người nhân viên bảo dưỡng đứng chờ đợi cùng với những cái nêm. Bên ngoài đường băng mũi của chiếc Hawker nghếch lên và bánh xe khẽ chạm đất trong thời gian một hơi thuốc. Chiếc máy bay giảm tốc độ lượn thành vệt từ phải sang trái trước ga hành khách, thân màu trắng của nó sáng lấp lánh trong thời tiết ẩm ướt.
Nhưng thay vì phanh lại và quay đầu vào ga hành khách, thì chiếc phản lực bình thản băng qua làn đường vào ga và tiếp tục đi về phía hăng-ga của Teabing ở đằng xa.
Tất cả cảnh sát quay lại và nhìn chằm chằm vào Edwards: "Tôi tưởng anh nói người phi công đã đồng ý đến thẳng ga hành khách".
Edwards ngớ ra: "Đúng thế mà!".
Lát sau, Edwards thấy mình ngồi kẹp trong chiếc xe cảnh sát phóng qua đường băng về phía hăng-ga ở đằng xa. Tốp cảnh sát còn cách cả năm trăm thước thì chiếc Hawker của Teabing đã thản nhiên tiến vào hăng-ga riêng và bìến mất. Cuối cùng, khi tốp xe con tới và dừng kít lại bên ngoài hăng-ga, cảnh sát ào ra, súng lăm lăm.
Edwards cũng nhảy ra.
Tiếng ồn ào đinh taỉ.
Động cơ của chiếc Hawker vẫn gầm lên khi chiếc phản lực chấm dứt vòng quay thông thường bên trong hăng-ga, vào vị trí quay mũi ra, sẵn sàng cho chuyến xuất phát sau. Khi chiếc máy bay hoàn thành động tác quay vòng 180o và chạy về phía trước hăng-ga, Edwards có thể nhìn thấy mặt viên phi công, có thể hiểu được anh ta kinh ngạc và sợ hãi như thế nào khi thấy cả một hàng rào xe cảnh sát.
Phi công dừng hắn máy bay và tắt động cơ. Cảnh sát tràn vào, chiếm lĩnh vị trí xung quanh chiếc phản lực. Edwards cùng với viên chánh thanh tra cảnh sát quận Kent di chuyển một cách thận trọng về phía cửa máy bay. Sau một vài giây, cửa máy bay mở ra.
Leigh Teabing xuất hiện ở khung cửa khi chiếc thang điện nhẹ nhàng hạ xuống. Nhìn thấy cả một biển vũ khí nhằm vào mình, ông chống đôi nạng và gãi đầu: "Simon, có phải là tôi trúng xổ số của cảnh sát trong khi vắng nhà không?". Giọng ông có vẻ ngơ ngác hơn là lo lắng.
Simon Edwards bước lên, ráng nuốt cái cục chẹn ngang cổ họng: "Chào ngài, tôi xin lỗi về sự nhầm lẫn. Chúng tôi có khí rò rỉ và phi công của ngài nói anh ta đến thẳng ga hành khách".
"Vâng, vâng, phải, nhưng thay vì như thế, tôi bảo anh ta đến đây. Tôi đang muộn một cuộc hẹn. Tôi trả tiền cho hăng-ga này, và cái chuyện vẽ vời né tránh chỗ khí ga rò rỉ nghe có vẻ quá ư thận trọng".
"Tôi e rằng việc ngài đến đã làm chúng tôi hơi bất ngờ, thưa ngài".
"Tôi biết Tôi về không đúng lịch chữa bệnh mà. Nói riêng với nhau, phương pháp điều trị mới làm tôi bí tiểu tiện. Tôi nghĩ mình phải về để điều chỉnh lại thuốc".
Đám cảnh sát đưa mắt nhìn nhau. Edwards nhăn nhó: "Rất tốt, thưa ngài".
"Thưa ngài", chánh thanh tra cảnh sát quận Kent bước lên phía trước, "tôi yêu cầu ngài ở lại trên máy bay khoảng nửa tiếng nữa".
Teabing có ve không vui khi ông tập tễnh bước xuống cầu thang: "Tôi e là không thể được. Tôi có một cuộc hẹn khám sức khoẻ". Ông xuống tới đường băng. "Tôi không thể lỡ hẹn".
Chánh thanh tra tiến đến chặn không để cho Teabing rời khỏi máy bay: "Tôi tới đây theo lệnh của Cảnh sát tư pháp Pháp.
Họ quả quyết ngài đang chở những kẻ lẩn trốn pháp luật trên chiếc máy bay này".
Teabing nhìn chằm chằm vào viên chánh thanh tra hồi lâu rồi cười phá lên: "Đây là một trong những chương trình quay phim được giấu kín phải không? Hay đấy!".
Chánh thanh tra không nao núng: "Điều này là nghiêm trọng, thưa ngài. Cảnh sát Pháp khẳng định ngài còn có một con tin trên máy bay".
Người hầu của Teabing là Rémy xuất hiện ở ô cửa đầu cầu thang: "Tôi cảm thấy như mình là một con tin làm việc cho ngài Leigh, nhưng ngài cam đoan với tôi rằng tôi được tự do đi khỏi". Rémy nhìn đồng hồ. "Ông chủ, quả là chúng ta đang bị trễ đấy". Ông ta gật đầu về hướng chiếc limousine có thể kéo dài mang nhãn hiệu Jaguar ở góc đằng kia hăng-ga. Chiếc ô tô đồ sộ màu gỗ mun với kính mờ và lốp màu tường trắng. "Tôi sẽ đưa xe lại". Rémy bắt đầu xuống cầu thang.
"Tôi e rằng chúng tôi không thể để các ông đi được", chánh thanh tra nói. "Xin hãy trở lại máy bay. Cả hai ông. Đại diện của cảnh sát Pháp sẽ hạ cánh trong chốc lát".
"Những gì tôi nghĩ không thành vấn đề". Langdon nói. "Ông cô đã trao hộp mật mã cho cô, và cô nên làm theo những gì mà linh tính mách bảo rằng ông cụ muốn cô làm như vậy".
"Tôi muốn biết quan điểm của anh. Rõ ràng anh đã viết điều gì trong bản thảo đó làm ông tôi tin vào nhận định của anh. Ông tôi đã lên lịch một cuộc gặp riêng với anh. Điều đó là hi hữu".
"Có thể ông cụ muốn bảo tôi rằng tôi đã hiểu sai hoàn toàn".
"Tại sao ông tôi lại bảo tôi tìm anh trừ phi ông tôi thích ý tưởng của anh? Trong bản thảo của mình, anh ủng hộ ý kiến cho rằng tài liệu Sangreal nên được công bố hay cứ để bị chôn vùi?".
"Cả hai ý đều không. Tôi không đưa ra nhận định theo một trong hai cách đó. Bản thảo đó bàn về hệ biểu tượng của tính nữ thiêng liêng - truy tìm những minh họa cho tính nữ thiêng liêng trong toàn bộ lịch sử. Chắc chắn tôi không mạo nhận là mình biết chỗ Chén Thánh được cất giấu hoặc cho rằng nó có nên được tiết lộ hay không".
"Tuy nhiên, anh đang viết một cuốn sách về nó, vậy rõ ràng là anh cảm thấy thông tin nên được chia sẻ".
"Có một sự khác nhau rất lớn giữa việc tranh luận trên cơ sở giả thuyết về một lịch sử khác của Christ và…". ông ngừng lại.
"Và gì?".
"Và việc trình ra trước thế giới hàng nghìn tài liệu cổ như là bằng chứng khoa học rằng Tân ước là thư chứng sai".
"Nhưng anh đã nói với tôi rằng Tân ước được dựa trên những điều bịa đặt".
Langdon mỉm cười: "Sophie, mọi niềm tin vào thế giới đều được dựa trên những điều bịa đặt. Đó là đỉnh nghĩa về niêm tin - chấp nhận điều mà chúng ta tưởng tượng là đúng, điều mà chúng ta không thể chứng minh. Mọi tôn giáo đều miêu tả Thượng Đế qua ẩn dụ, ngụ ngôn và cường điệu, từ những người Ai Cập cổ cho đến các trường đạo ngày Chủ nhật (2) hiện nay. Ẩn dụ là một cách để giúp trí óc chúng ta xử lý những gì không thể xử lý được. Vấn đề chỉ phát sinh khi chúng ta bắt đầu tin những ẩn dụ của chính chúng ta theo nghĩa đen".
"Vậy là anh tán thành để những tài liệu Sangreal bị chôn vùi mãi mãi?".
"Tôi là một sử gia. Tôi chống lại sự hủy hoại tài liệu, và tôi muốn thấy những học giả tôn giáo có được thông tin nhiều hơn để suy ngẫm về cuộc đời khác thường của Jesus Christ".
"Anh đang lập luận cho cả hai phía trong vấn đề của tôi".
"Tôi á? Kinh Thánh là kim chỉ nam cơ bản cho hàng triệu người trên hành tinh này, và bằng cách tương tự các kinh Koran, Torah và Pali Canon dẫn dắt những người của các tôn giáo khác. Nếu cô và tôi có thể khai quật được tài liệu nói ngược lại những câu chuyện thần thánh của tín ngưỡng Hồi giáo, tín ngưỡng Do Thái, tín ngưỡng Phật giáo, tín ngưỡng của kẻ ngoại đạo, thì liệu chúng ta có nên làm điều đó chăng? Chúng ta có nên phất lên một ngọn cờ và nói với các Phật tử rằng chúng ta có bằng chứng là Phật tổ không sinh ra từ hoa sen? Hoặc giả là Jesus không được sinh ra từ sự thụ thai trinh khiết theo nghĩa đen? Những ai thực sự hiểu tín ngưỡng của mình đều hiểu những câu chuyện đó là ẩn dụ".
Sophie có vẻ hoài nghi: "Bạn của tôi, một người sùng đạo Cơ Đốc dưt khoát tin rằng Christ đi trên mặt nước theo nghĩa đen, biến nước thành rượu vang theo nghĩa đen, và sinh ra từ sự thụ thai trinh khiết theo nghĩa đen".
"Quan điểm của tôi chính xác là", Langdon nói, "Ngụ ngôn tôn giáo đã trở thành một phần kết cấu của hiện thực. Và việc sống trong hiện thực đó giúp hàng triệu người xử thế và trở thành người tốt hơn".
"Nhưng có vẻ như hiện thực của họ là giả dối".
Langdon tủm tỉm cười: "Cũng chẳng giả hơn hiện thực của một người giải mã toán học lại tin vào số tưởng tượng "i" bởi vì nó giúp cô ta giải những mật mã".
Sophie cau mày: "Cái đó không hợp lý".
Một khoảnh khắc trôi qua.
"Vừa nãy cô hỏi gì nhỉ?" Langdon hỏi.
"Tôi không nhớ được".
Langdon mỉm cười: "Lần nào cũng hiệu quả".
Chú thích:
(1) Công trình thời tiền sử gồm một vòng tròn lớn với các trụ đá đồ sộ bao quanh một vòng tròn nhỏ hơn và bốn cổng đá.
(2) Lớp học tổ chức vào ngày Chủ nhật giảng dạy về tôn giáo cho trẻ em.
---------------------------------------------------------