Mật Mã Da Vinci

Chương 52 :

Ngày đăng: 01:02 22/04/20


Chiếc đồng hồ đeo tay Chuột Mickey của Langdon chỉ gần 7 giờ 30 khi ông từ chiếc limousine nhãn hiệu Jaguar bước xuống con hẻm Inner Temple với Sophie và Teabing. Bộ ba đi ngoằn ngoèo qua một khu bàn cờ chen chúc nhà cửa để tới cái sân nhỏ bên ngoài Nhà thờ Temple. Tường đá đẽo thô ánh lên mờ mờ trong mưa, và chim câu gù trong các chi tiết kiến trúc trên đầu.



Nhà thờ cổ kính này của London được xây dựng hoàn toàn bằng đá Caen. Gồm một toà nhà tròn gây ấn tượng với mặt tiền dữ dằn, một thấp nhỏ ở trung tâm và gian giữa giáo đường nhô ra về một bên, nhà thờ nhìn giống một pháo đài quân sự hơn là một nơi thờ cúng. Được Heraclius, giáo trưởng của Jerusalem, làm phép vào ngày 10 tháng 2 năm 1185, nhà thờ đã tồn tại qua tám thế kỷ hỗn loạn về chính trị, cuộc đại hoả hoạn ở London, chiến tranh thế giới lần thứ nhất, và chỉ bị hư hỏng nặng nề nhất trong lần bị không quân Đức ném bom cháy vào năm 1940.



Sau chiến tranh, nó đã được phục chế trở về dáng vẻ hùng vĩ hoang dại ban đầu.



Nét giản dị của hình tròn. Langdon nghĩ thầm, lần đầu tiên được dịp chiêm ngưỡng toà nhà. Kiến trúc thô nháp và đơn sơ, khiến người ta nhớ đến Castel Sant Angelo xù xì ở Rôma hơn là Điện Pantheon tao nhã. Dãy nhà phụ hình hộp nhô ra ở bên phải thật chướng mắt, mặc dù nó chẳng làm mấy tí để che khuất hình thù ngoại giáo ban đầu của cấu trúc nguyên thủy.



"Ngày thứ bảy, giờ này vẫn là sớm", Teabing nói, tập tễnh đi về phía lối vào, "cho nên tôi nghĩ chúng ta sẽ không vướng phải lễ chầu nào đâu".



Cổng nhà thờ là một hốc đá, bên trong nó là một cánh cửa gỗ lớn. Ở bên trái cửa, nom hoàn toàn lạc chỗ, treo một bảng thông tin dán đầy những chương trình hoà nhạc và thông báo các buổi lễ chầu.



Teabing cau mày khi đọc bảng tin: "Hai giờ nữa họ mới mở cửa cho khách tham quan". Ông đi tới cánh cửa và đẩy thử.



Cánh cửa không nhúc nhích. Teabing áp tai vào gỗ và lắng nghe. Sau một lát, ông lùi lại, vẻ mưu mô hiện trên nét mặt khi ông chỉ lên bảng thông báo. "Robert, kiểm tra lại lịch lễ chầu xem! Ai chủ trì tuần này?".



***



Bên trong nhà thờ, một lễ sinh đang sắp hoàn thành việc hút bụi những gối quỳ làm lễ Thánh thể thì nghe thấy tiếng gõ cửa thánh đường. Cậu ta lờ đi. Cha Harvey Knowles có chìa khoá riêng và hai tiếng nữa mới phải có mặt. Tiếng gõ cửa có lẽ là của một khách du lịch tò mò hay một kẻ ăn xin. Cậu ta cứ hút bụi tiếp, nhưng tiếng gõ vẫn tiếp tục. Không biết đọc à? Tấm bảng treo ở cửa đã nói rõ là nhà thờ sẽ không mở cửa cho đến 9 giờ 30 ngày thứ bảy. Cậu bé quay lại với công việc của mình.



Đột nhiên, tiếng gõ chuyển thành những cú đập rất mạnh như thể ai đó đang nện vào cửa bằng một thanh kim loại vậy.



Cậu nhỏ tắt máy hút bụi và cáu kỉnh đi ra phía cửa. Mở khoá cửa từ phía trong, cậu giật tung cánh cửa. Ba người đứng ngay ở lối vào. Khách du lịch, cậu càu nhàu: "Chúng tôi mở cửa vào lúc 9 giờ 30".



Người đàn ông phục phịch, có vẻ là người dẫn đầu, chống đôi nạng bằng kim loại bước lên phía trước: "Ta là Ngài Leigh Teabing", ông ta nói, giọng Anh Saxon rõ ra là người trí thức, chắc hẳn cháu biết, ta đang tháp tùng ông bà Christopher Wren đệ tứ", ông bước sang bên, điệu đàng vung tay về phía cặp uyên ương hấp dẫn phía sau. Người phụ nữ nét mặt dịu dàng, mái tóc rậm màu vang đỏ. Người đàn ông cao, tóc sẫm màu và trông quen quen.



Cậu lễ sinh không biết phản ứng ra sao. Ngài Christopher Wren là vị mạnh thường quân nổi tiếng nhất góp công đức vào Nhà thờ Temple. Ông đã cho trùng tu lại mọi hư hại của nhà thờ do cuộc Đại Hoả Hoạn gây ra. Ông đã mất từ đầu thế kỉ 18.



"Ưm…rất hân hạnh được gặp ngài".



Người đàn ông chống nạng cau mày: "Thật may là cháu không phải là chân bán hàng, cháu chẳng đon đả gì cho lắm. Cha Knowles đâu?".



"Hôm nay là thứ bảy. Chưa tới giờ Cha đến".



Vẻ cau có của người đàn ông chân què càng tăng thêm: "Thế mà gọi là biết ơn đấy! Ông ta cam đoan với chúng ta rằng ông ta sẽ ở đây, nhưng xem ra chúng ta phải tiến hành công việc mà không có ông ta. Sẽ không mất nhiều thời gian đâu".



Cậu bé lễ sinh vẫn đứng chắn lối vào: "Xin lỗi, việc gì không mất nhiều thời gian?".



Đôi mắt của vị khách quắc lên, và ông ta cúi người về phía trước thì thầm như để tránh cho mọi người khỏi bối rối: "Này chú nhỏ, hình như cháu là người mới ở đây thì phải. Hàng năm, hậu duệ của ngài Christopher Wren đều mang một nhúm tro của ngài để rải trong điện thờ linh thiêng này. Đây là một phần di chúc mà ngài để lại. Không ai thật sự sung sướng khi thực hiện chuyến đi này, nhưng chúng ta biết làm thế nào?".



Cậu bé lễ sinh đã ở đây được hai năm nhưng chưa bao giờ nghe nói về tục lệ này: "Tốt nhất là ngài đợi đến 9 giờ 30. Nhà thờ vẫn chưa mở cửa, và cháu thì vẫn chưa hút bụi xong".



Người đàn ông chống nạng nhìn trừng trừng, giận dữ: "Này chú nhỏ, lý do duy nhất khiến tòa nhà này còn lại được bất cứ cái gì để cho cậu hút bụi là nhờ quí ngài trong túi áo của bà kia đấy".



"Cháu không hiểu?".



"Bà Wren", người đàn ông chống nạng nói, "bà vui lòng cho cậu bé xấc xược này xem lọ tro trong túi bà chứ?".




Fache trèo lên. Ba phút sau, với sự trợ giúp của khẩu súng, ông ta đã có được đầy đủ lời thú nhận, kể cả sự mô tả gã tu sĩ bạch tạng. Thêm vào đó, ông ta còn biết rằng viên phi công đã thấy Langdon và Sophie để lại vật gì trong két an toàn của Teabing, một thứ hộp gỗ gì đó. Mặc dù viên phi công phủ nhận không biết có gì trong hộp, anh ta thừa nhận là Langdon chỉ tập trung chú ý vào nó trong suốt chuyến bay tới London.



"Mở két an toàn ra", Fache yêu cầu.



Viên phi công có vẻ sợ hãi. "Tôi không biết mã khoá số!".



"Đáng tiếc. Tôi đang định đề nghị để anh được giữ bằng lái của mình".



Viên phi công vặn hai tay vào nhau: "Tôi biết một vài người trong bộ phận duy tu ở đây. Có lẽ họ có thể khoan nó chăng?".



"Anh có nửa giờ".



Viên phi công lao tới máy bộ đàm.



Fache bước về phía sau máy bay và tự rót rượu cho mình.



Lúc này vẫn sớm, nhưng vì ông ta chưa được chợp mắt nên đây không kể là uống rượu trước buổi trưa. Ngồi xuống chiếc ghế bọc vải nhung, ông ta nhắm mắt lại, cố gắng phân tích những gì đang diễn ra. Sai lầm của cảnh sát quận Kelt có thể làm mình trả giá đắt. Giờ đây, mọi người đang dồn sức tìm kiếm chiếc limousine Jaguar màu đen.



Chuông điện thoại của Fache vang lên, và ông ta ước có được một phút bình yên. "Alô?".



"Tôi đang trên đường tới London", đó là giám mục Aringarosa. "Tôi sẽ tới nơi trong vòng một giờ nữa".



Fache ngồi xuống: "Tôi tưởng ngài đang đi Paris?".



"Tôi rất lo lắng và đã thay đổi kế hoạch".



"Lẽ ra ngài không nên làm vậy".



"Ông đã tìm được Silas chưa?".



"Chưa. Những kẻ bắt giữ hắn đã qua mặt được cảnh sát địa phương trước khi tôi hạ cánh".



Giọng Aringarosa gắt lên, giận dữ: "Ông đã cam đoan với tôi là sẽ ngăn chiếc máy bay đó lại!".



Fache hạ thấp giọng: "Thưa giám mục, xét tình cảnh của ngài, tôi khuyên ngài đừng thử thách lòng kiên nhẫn của tôi ngày hôm nay. Tôi sẽ tìm thấy Silas cùng những tên kia trong thời hạn sớm nhất có thể. Ngài sắp hạ cánh ở đâu?".



"Chờ một lát", Aringarosa che ống nghe, rồi nói tiếp, "tay phi công đang xin phép hạ cánh ở Heathrow. Tôi là hành khách duy nhất của anh ta, nhưng việc đổi hướng bay là ngoài kế hoạch".



"Hãy bảo anh ta tới sân bay Biggin Hill. Tôi sẽ xin cho anh ta hạ cánh. Nếu tôi không có ở đây khi ngài hạ cánh, tôi sẽ cho xe đợi ngài".



"Cám ơn ông".



"Như tôi đã nói trong lần đầu chúng ta nói chuyện với nhau, thưa giám mục, ngài nên nhớ kỹ rằng ngài không phải là người duy nhất sắp mất hết mọi thứ".



---------------------------------------------------