Mùa Hè

Chương 15 :

Ngày đăng: 13:53 19/04/20


Đêm đó, như thường lệ, họ chào tạm biệt ở mép rừng.



Harney định đi vào sáng sớm hôm sau. Anh ta bảo Charity đừng nói gì về hoạch định của họ cho tới khi chàng trở lại, và lạ lùng làm sao, bản thân nàng cũng vui vì sự trì hoãn này. Một sự xấu hổ nặng nề treo trên nàng, làm cho nàng mụ mẫm khó nói lên những lời đầy xúc cảm để tạm biệt anh ta. Anh ta lặp đi lặp lại những lời hứa sẽ trở lại của mình dường như là gây tổn thương cho nàng. Nàng tin chắc anh ta sẽ trở lại, nhưng những sự hoài nghi của nàng còn sâu sắc hơn và khó định nghĩa được.



Cảnh tượng kỳ diệu của tương lai thoáng qua trí tưởng tượng của nàng. Lần đầu gặp gỡ, nàng không bao giờ nghĩ rằng anh ta sẽ cưới nàng. Nàng không có ý tưởng đó trong đầu, nó không có trong đó. Nếu có bao giờ nàng nghĩ về tương lai thì theo bản năng, nàng thấy như có một cái vực rất sâu ngăn cách họ mà cây cầu tình cảm bắc ngang qua không có thực, nó chỉ như một chiếc cầu vồng. Nhưng nàng ít khi nghĩ về tương lai, nhiều thứ quá đến nỗi nó làm nàng mê muội. Bây giờ cảm giác đầu tiên của nàng là mọi thứ sẽ khác trước đây. Đối với Harney, nay nàng sẽ là một “sinh vật khác”. Thay vì vẫn còn riêng biệt và tuyệt đối, nàng sẽ được so sánh với những người khác, và những điều không biết sẽ được mong mỏi ở nàng. Nàng rất tự hào nhưng cũng lo sợ, tự do của tinh thần đang suy sụp.



Harney không nói chính xác ngày trở lại, anh ta nói sẽ phải xem xét trước rồi mới hình thành mọi thứ. Anh ta hứa sẽ viết thư ngay khi có điều gì đó được xác định rõ ràng. Anh ta để lại địa chỉ, và cũng bảo nàng viết thư cho mình. Nhìn địa chỉ, nàng cảm thấy sợ. Nó ở New York, một câu lạc bộ với cái tên dài ngoằng trên đại lộ thứ năm: nó dường như dựng lên một rào chắn không thể nào vượt qua được giữa anh ta và nàng. Một vài lần trong những ngày đầu tiên, nàng lấy giấy để viết thư rồi ngồi nhìn nó. Nàng cố gắng để xem phải viết những gì, nhưng nàng có cảm tưởng thư nàng sẽ không đến nơi. Nàng chưa bao giờ viết cho ai ở xa hơn Hepberun.



Lá thư đầu tiên của Harney đến vào ngày thứ mười sau khi anh ta đi. Nó nhẹ nhàng nhưng quan trọng và không giống những mẩu giấy mà thằng bé mặt đầy tàn nhang từ Creston River mang đến cho nàng. Anh ta nói một cách chủ quan về ý định của anh ta trong chuyến trở lại, nhưng không nói ngày nào. Anh ta còn nhắc nhở Charity về việc thỏa thuận những kế hoạch của họ không được tiết lộ ra, cho đến khi anh ta có đủ thời gian để “sắp xếp mọi thứ.” Khi nào việc đó hoàn thành thì anh ta chưa biết trước được, nhưng nàng chờ anh ta trở lại thì mọi việc sẽ rõ ràng ngay tức khắc.



Nàng có cảm giác lạ lùng khi đọc lá thư đến từ một nơi xa vời vợi và nó đã mất gần hết ý nghĩ trên đường đi. Nàng trả lời bằng một bưu thiếp có ảnh màu Thác Creston, trên đó nàng viết: “Gửi anh với tình yêu của Charity.” Nàng cảm thấy việc này không thỏa đáng. Nàng thất vọng và hiểu rằng mình không có khả năng để diễn tả những gì mình muốn nói. Nàng không biết làm gì hơn là gửi cho anh ta những cảm tưởng lạnh lùng miễn cưỡng mà thôi. Nàng không thể nào quên việc anh ta chưa bao giờ nói cưới nàng, cho đến khi ông Royall buộc phải nói ra. Nàng không đủ dũng khí để giũ bỏ chất bùa mê đã gắn nàng vào anh ta. Nàng đã mất tính tự chủ trong tình cảm và dường như đang ngồi chờ số phận mà nàng không thể ngoảnh mặt đi.



Nàng đã không gặp ông Royall khi trở về ngôi nhà màu đỏ. Sáng hôm sau ngày nàng chia tay Harney, khi nàng đi xuống, Verena bảo cho nàng biết ông Royall đã đi Worcester và Portland. Thời gian này trong năm là lúc ông đến các hãng bảo hiểm mà ông đại diện để báo cáo tình hình. Không có gì bất thường trong chuyến khởi hành của ông ngoại trừ sự đột ngột của nó. Nàng có nghĩ đôi chút về ông, nhưng cũng vui vì ông không có mặt ở nhà.



Trong khi North Dormer đang hồi phục sau những ngày lao thân vào vui chơi lễ hội, nàng cũng nghỉ ngơi vài ba ngày, vì vậy sự lo âu lắng xuống và rời bỏ nàng lúc nào nàng cũng không biết. Một vài ngày sau khi lễ hội “Trở Về Mái Nhà Xưa” khép lại, Charity đã trốn Ally và bỏ thư viện để đi lang thang lên những ngọn đồi suốt ngày. Nhưng nàng không thể tránh Ally trung thực được lâu. Vì sau đó, mùa mưa kéo đến vào các buổi chiều, nên Ally đến ngôi nhà đỏ để tìm bạn mình là Charity và cùng nhau may vá ở trong nhà.



Hai cô gái ngồi trong phòng của Charity trên lầu. Charity để đôi bàn tay nhàn nhã của mình trên đùi, rồi chìm đắm vào giấc mơ nặng như chì, mà qua đó nàng chỉ nhận ra Ally mờ mờ đang ngồi đối diện với nàng ở chiếc ghế thấp bằng cói. Ally để đồ may của mình trên đầu gối, đôi môi mỏng trề ra khi nó cúi xuống làm việc.



Ally nói một cách tự hào: “Viền một dây ruy băng dọc theo áo là ý tưởng của tớ đấy.” Ally ngả người ra sau một chút để ngắm nghía chiếc áo nó đang trang trí: “Áo này của cô Balch: cô ấy sẽ vui chết đi được.” Nó ngừng lại rồi nói thêm với một cơn xúc động trong cái giọng the thé của nó: “Tớ không bảo cho cô ấy biết là tớ bắt chước theo cái áo của Julia.”



Charity nhướn cặp mắt bơ phờ lên: “Thỉnh thoảng cậu gặp Julia chứ?”



Ally đỏ mặt, như thể lời nói bóng gió đã giải thoát nó một cách không chủ tâm. “Ồ, tớ gặp chị ấy lâu lắm rồi trong lần chị mặc chiếc áo này.”



Lại yên lặng, rồi Ally nói tiếp: “Cô Balch để lại cho tớ nhiều việc làm trong lúc này.”



“Cô ấy chưa đi sao?” - Charity dò hỏi mà trong lòng buồn bực không yên.



“Cậu không biết sao? Cô ấy đi ngay sáng hôm sau khi xong lẽ hội ở Hamblin. Tớ thấy cô ấy chạy ngang qua với ông Harney.”



Sự yên lặng khác lại nối tiếp được đo bằng những giọt mưa tí tách đập vào cửa sổ, chỉ có tiếng kéo cắt lách cách của Ally xen vào trong không gian và thời gian đó mà thôi.



Ally phá ra cười một cách vô tư: “Cậu biết cô ấy nói gì với tớ trước khi đi không? Cô ấy bảo là sẽ gởi thư mời tớ đến Springfield để làm vài việc cho ngày cưới của cô ấy.”



Charity lại nhướn đôi mắt nặng nề lên và nhìn trân trân gương mặt nhọn tái mét của Ally đang chuyển tới lui theo những ngón tay đang làm việc của nó.




Nàng đọc thư trong sự nôn nóng, rồi cúi xuống và cúi xuống trên lá thư mỗi lúc một chậm và cẩn thận hơn. Lời lẽ trong thư rất đẹp đến nỗi nàng thấy nó gần như khó hiểu giống như lời diễn giải những hình ảnh trong Phúc âm của người đàn ông sang trọng ở Nettleton, nhưng dần dần nàng hiểu ra ý nghĩa chính của lá thư nằm ở một ít chữ cuối. “Nếu bao giờ có một tia hy vọng trong sự thực hiện những gì chúng ta mơ ước”



Nhưng rồi anh ta không chắc cái gì chứ? Bây giờ nàng hiểu hết mọi từ và sự thừa nhận công khai giữa anh ta và Annabel Balch có liên quan. Vậy là việc đính ước với cô ta là sự thật và anh ta chưa tìm được cách gì để hủy cuộc hôn nhân này.



Anh ta không cố gắng lẩn tránh một yêu cầu thúc bách; anh ta đang tranh đấu một cách chân thành và hối lỗi giữa hai bổn phận trái ngược nhau. Nàng không trách móc anh ta trong tư tưởng về việc không tiết lộ với nàng rằng mình không còn tự do: Nàng không thể thấy bất cứ điều gì đáng chỉ trích ở hạnh kiểm anh ta hơn ở mình. Từ lúc đầu nàng đã cần anh ta hơn là anh ta muốn nàng, và mãnh lực đó đã kéo họ lại với nhau còn mạnh hơn trận cuồng phong làm tơi tả lá rừng. Một biến động đột ngột duy nhất đứng sừng sững giữa họ là gương mặt không thể phá hủy được của Annabel Balch...



Mặt đối mặt với sự thừa nhận sự thật, nàng ngồi nhìn trân trân vào lá thư. Một cơn ớn lạnh chạy khắp người, nức nở trào dâng làm nghẹn ngào và làm nàng run rẩy từ đầu đến chân. Trong một lúc, nàng bị chộp và ấn vào những đợt sóng phiền muộn làm nàng không còn tỉnh táo chống lại những sự tấn công của chúng. Rồi dần dần nàng bắt đầu hồi phục sau những cơn đau thai nghén, mỗi cơn đau là kết quả của mối tình lãng mạn đáng thương của mình. Những điều ngu xuẩn nàng đã nói nay quay về với nàng: vui vẻ đáp lại chuyện Harney đã làm, nụ hôn đầu tiên trong bóng đêm giữa trận pháo hoa, việc cùng nhau chọn kim cài áo, cách anh ta chọc ghẹo nàng về những lá thư nàng để rơi giữa đường mà nhà truyền giáo nhặt được...



Tất cả những kỷ niệm đó và hàng ngàn thứ khác đang vo ve trong óc nàng. Sự gần gũi của anh ta đang dâng lên rất mãnh liệt đến nỗi nàng như thấy những ngón tay anh ta trong tóc nàng. Hơi thở nồng ấm trên má nàng khi anh ta kéo đầu nàng ra sau như một cành hoa vẫn còn phảng phất đâu đây. Những cái này là của nàng, chúng đã thấm nhuần trong huyết quản của nàng, và đã trở thành một phần của nàng, chúng đã hình thành một thai nhi trong tử cung của nàng, không thể phân chia cuộc sống đã đan xen vào nhau được.



Sự tin tưởng dần dần tăng thêm sức mạnh cho nàng, rồi nàng bắt đầu hình thành trong trí những lời lẽ đầu tiên nàng sẽ viết cho Harney. Nàng muốn viết ngay tức khắc, với hai bàn tay bồn chồn nàng bắt đầu lục lọi trong ngăn kéo để tìm giấy viết thư. Nhưng không còn lại tờ nào, nàng phải xuống lầu để lấy nó. Nàng có cảm giác mê tín rằng lá thư phải được viết ngay tức khắc, viết ra những bí mật sẽ mang đến cho nàng sự yên tâm và an toàn. Nàng lấy nến và đi xuống văn phòng ông Royall.



Nàng nghĩ chắc sẽ không gặp ông Royall vào giờ đó, có lẽ ông ta đang ăn tối và đi đến nhà Carrick Fry. Nàng đẩy cửa vào văn phòng không đốt đèn, và ánh sáng trong cây nến của nàng đưa lên rọi trên gương mặt ông đang ngồi trong chiếc ghế dựa. Đôi cánh tay để nằm dọc theo tay ghế, đầu hơi gục xuống, nhưng ông ngẩng lên rất nhanh khi Charity bước vào. Nàng thụt lùi lại khi đôi mắt họ chạm nhau, cặp mắt của Charity thì đỏ vì vừa mới khóc, và nét mặt thì ánh lên vẻ mệt mỏi và xúc động sau cuộc hành trình. Nhưng quá muộn để chuồn đi nên nàng đứng nhìn ông ta trong im lặng.



Ông đứng lên, đi về phía nàng với hai bàn tay duỗi ra. Cử chỉ rất bất ngờ đến nỗi nàng để cho ông nắm lấy tay mình và họ đứng lặng thinh, rồi ông Royall nói một cách nghiêm trang: “Charity, em đang tìm tôi sao?”



Nàng buông tay ra đột ngột rồi thụt lùi: “Tôi hả? Không...” Nàng để cây nến trên bàn ông - “Tôi muốn vài tờ giấy viết thư, chỉ có vậy thôi.” Gương mặt ông rầu rầu, cặp lông mày rễ tre thò ra trên đôi mắt. Không trả lời, ông mở hộc bàn lấy ra một tờ giấy và một phong bì rồi đẩy chúng về phía nàng và hỏi: “Em muốn một con tem nữa chứ?”



Nàng gật đầu, và ông đưa cho nàng con tem. Khi ông Royall làm việc đó, nàng thấy ông nhìn nàng một cách chú ý. Nàng biết ánh nến đã chiếu trên gương mặt trắng bệch của nàng, nó cũng làm cho méo mó những nét căng trên cơ thể và cường điệu những quầng thâm trên mắt nàng. Nàng chụp tờ giấy, sự an tâm của nàng đang tan vỡ dưới cái nhìn của ông, nàng đọc được sự thương hại và nhẫn tâm trong đôi mắt đó. Và hồi ức đầy mỉa mai ngày nào lại hiện lên: chính trong căn phòng nơi nhà hoang ông đã thúc ép Harney cưới nàng. Cái nhìn của ông dường như nói lên rằng nàng lấy giấy để viết thư cho người yêu, cái người đã bỏ rơi nàng như lời ông đã cảnh báo. Nàng nhớ lại sự khinh bỉ của ông mà chính vì nó nàng đã quay lưng lại với ông từ dạo đó. Nếu ông đoán đúng thì bàn thắng sẽ nghiêng về phía ông. Nàng quay lại và vọt lên lầu, nhưng khi nàng về đến phòng mình thì những lời định viết ra bay đi mất hết...



Nếu nàng có thể tìm đến Harney thì mọi chuyện sẽ khác. Nàng phải tự tìm đến anh ta để những kỷ niệm nói thay nàng. Nhưng nàng không còn một đồng nào, và không có ai để nàng có thể mượn đủ tiền cho cuộc hành trình. Không có việc gì làm ngoài việc viết thư và chờ đợi anh ta trả lời. Nàng ngồi cúi xuống tờ giấy trắng một lúc lâu nhưng không tìm được lời để diễn tả thật lòng mình.



Harney đã viết rằng nàng đã làm cho anh ta thấy dễ dàng hơn, và nàng cũng vui về việc đó, nàng không muốn làm mọi việc trở nên khó khăn. Nàng biết mình có quyền làm việc đó, nàng cầm số phận anh ta trong tay mình. Tất cả việc nàng phải làm là nói cho anh ta nghe sự thật, nhưng thực tế nắm giữ nàng lại. Năm phút mặt đối mặt với ông Royall đã lột trần ảo tưởng cuối cùng của mình, và mang nàng trở lại quan điểm về North Dormer.



Trước mặt nàng nổi lên một cách rành rọt và nhẫn tâm cái định mệnh của cô gái kết hôn “để làm mọi việc đúng.” Nàng đã thấy rất nhiều câu chuyện tình yêu ở trong làng kết thúc trong cách này. Cuộc hôn nhân khốn khổ của Rose Coles là một trong số đó; và cái gì tốt trong cuộc hôn nhân dành cho nàng hay cho Halston Skeff? Họ ghét nhau từ ngày vị mục sư làm phép cưới cho họ, và bất cứ lúc nào bà già Skeff cũng có thể tưởng tượng ra một cái gì đó để làm bẽ mặt con dâu. Có lúc bà ta chỉ nói: “Người gì mà lúc nào cũng nghĩ giống như đứa bé lên hai.” Và khi nói về một đứa bé bảy tháng tuổi: “Chỉ có bây lớn thôi sao?” North Dormer không những có kho tàng đam mê và sôi nổi mà còn có cả sự chế nhạo dành cho những người bị vồ lấy từ sự cháy bỏng đó, và Charity luôn luôn hiểu vì sao mà Julia Hawes không để bị vồ lấy.



Không còn sự lựa chọn nào khác nhưng theo cách của Julia thì sao? Tâm tưởng nàng trở lại khung cảnh gương mặt trắng toát của người đàn bà giữa những chiếc ghế dài phủ nhung lông đỏ và những khung hình mạ vàng. Trong sự sắp xếp đồ đạc ngăn nắp đó cho nàng biết không có chỗ nào cho chuyến phiêu lưu cá nhân của mình.



Nàng ngồi trong ghế mà không thay quần áo cho đến khi những vệt nắng yếu ớt bắt đầu chia đều trên những thanh gỗ đen của các cửa chớp. Rồi nàng đứng lên và đẩy chúng mở ra, để cho ánh sáng tràn vào. Ngày mới vừa đến, mang theo một nhận thức tỉnh táo sắc nét hơn về sự thật không thể tránh khỏi, và theo sau nó là một nhu cầu hành động. Nàng tự nhìn mình trong gương, thấy gương mặt mình trắng bệch trong buổi bình minh mùa thu, đôi má hóp và mắt có quầng thâm. Tất cả những dấu hiệu về tình trạng của mình thì tự nàng sẽ chẳng bao giờ biết được, nhưng sự chẩn đoán của bác sĩ Merkle đã nói rõ điều đó. Nàng không thể hy vọng rằng những dấu hiệu đó sẽ thoát khỏi sự dòm ngó của dân làng, hình dáng của nàng cũng mất vẻ cân đối ngày trước, ngay cả vẻ mặt cũng phản bội nàng.



Tựa vào cửa sổ, nàng nhìn ra quang cảnh tối tăm và vắng vẻ, những ngôi nhà màu tro với những cửa sổ chớp, con đường xám xịt chạy lên dốc có những cây độc cần bao quanh nghĩa trang và khối Núi đen nặng nề tương phản trên nền trời có mưa. về hướng đông, không trung tỏa sáng trên khu rừng, nhưng trên đó cũng có những cụm mây bay. Chầm chậm, cái nhìn của nàng băng ngang những cánh đồng đến chỗ quanh gồ ghề của những ngọn đồi. Nàng đã thường nhìn vòng tròn không sinh động đó, và tự hỏi nếu có điều gì xảy ra cho những người bị vây hãm trên đó thì sao?



Hầu như không có ý tưởng tỉnh táo nào trong quyết định của nàng. Khỉ đôi mắt nàng theo dõi đường tròn của những ngọn đồi thì đầu óc nàng cũng trở về ý định cũ. Nàng cho rằng có một cái gì đó trong huyết quản nàng cho biết Núi sẽ đáp lại yêu cầu của nàng, sự ra đi khỏi tất cả những gì đã vây hãm và ngáng lối đi của nàng là điều sẽ xảy ra. Nó bắt đầu hiện ra lờ mờ trong bình minh mưa rơi. Càng nhìn lâu thì nàng càng hiểu rõ hơn, Núi là nơi nàng sẽ thật sự phải đến với bất cứ giá nào.