Mùa Hè

Chương 16 :

Ngày đăng: 13:53 19/04/20


Mưa tạnh và một giờ sau, khi nàng bắt đầu ra đi thì ánh sáng mặt trời chan hòa trên những cánh đồng.



Sau chuyến ra đi của Harney, nàng đã trả chiếc xe đạp về chủ của nó ở Creston, và nàng không chắc có thể đi bộ suốt đường dài lên Núi. Ngôi nhà hoang nằm trên con đường đó, nhưng những ý tưởng trong đêm làm nàng không thể chịu đựng nổi, và nàng nghĩ sẽ cố gắng đến Hamblin, nơi nàng có thể ngủ lại trong nhà gia súc bằng gỗ nếu sức mạnh giúp nàng đi đến đó. Những kế hoạch được vạch ra một cách cẩn thận. Trước khi ra đi nàng bắt mình phải cố uống một ly sữa và ăn một miếng bánh mì, rồi nàng bỏ vào cái túi vải một gói nhỏ sô-cô-la mà Harney luôn mang theo trong cái túi để ở xe đạp. Nàng nghĩ, trên tất cả mọi thứ là phải giữ gìn sức khỏe để nàng đến nơi mình mong muốn mà không bị phát giác.



Từng dặm từng dặm đường cũ bỏ lại phía sau, mà trên đó nàng rất thường khi bay tới người yêu. Khi nàng đến ngã ba nơi con đường đi vào rừng phân nhánh từ quốc lộ, nàng nhớ lại căn lều của nhóm giảng dạy Phúc âm - giờ vẫn đứng trong chòm cây và nàng bắt đầu thấy lo sợ khi người truyền giáo mập mạp đã nói trước đây: “Chúa lòng lành biết tất cả mọi sự. Hãy đến và thú nhận tội lỗi.” Bây giờ trong nàng không có một ý nghĩ tội lỗi nào, mà chỉ có một mong muốn là bảo vệ bí mật của nàng khỏi những đôi mắt xoi mói, và sẽ bắt đầu lại cuộc sống giữa những người quê mùa trong cái làng mà không ai biết đến. Sự thôi thúc không hình thành trong tâm trí nàng: nàng chỉ biết mình phải cứu lấy đứa bé và ẩn mình một nơi nào đó mà không ai có thể đến để quấy rầy mẹ con nàng.



Nàng đi và tiếp tục đi, đôi chân càng lúc càng nặng nề khi ngày dần tan. Dường như có một sức mạnh tàn bạo cưỡng bách nàng từng bước, từng bước chân trở lại con đường xưa đến ngôi nhà hoang. Rồi nàng bước vào vườn cây ăn quả, mái nhà nghiêng bóng qua những cành cây nặng trĩu, sức khỏe nàng đánh gục nàng và buộc phải ngồi lại bên vệ đường. Nàng ngồi đó một lúc lâu, cố gắng thu hết can đảm để tiếp tục lên đường. Nàng đi qua cái cổng gãy và những bụi hồng gai không cắt tỉa đang bung cánh màu đỏ thắm. Một vài giọt mưa đang rơi, và nàng nghĩ đến những buổi tối nồng nàn khi nàng và Harney đã ngồi ôm nhau trong phòng tôi, và âm thanh mùa hè râm ran trên mái nhà, xào xạc qua những nụ hôn của họ. Một hồi lâu nàng hiểu rằng nếu nàng còn nấn ná thì mưa có thể buộc nàng phải trú lại căn nhà qua đêm. Nàng tiến bước, ngoảnh mặt lại khi nàng đến gần cái cổng màu trắng và đi ngang qua khu vườn không được chăm sóc.



Thời gian trôi qua, nàng đi càng lúc càng chậm, dừng lại lúc này lúc khác rồi nghỉ ngơi, ăn một chút bánh mì và một quả táo hái bên lề đường. Cơ thể nàng dường như mỗi lúc một nặng hơn theo từng tấc đường, và nàng tự hỏi làm sao nàng có thể mang con mình sau này chứ, nếu thật sự anh ta để lại gánh nặng như vậy cho nàng. Một luồng gió mát thổi qua bắn tung những giọt mưa rơi từ trên núi xuống. Chẳng mấy chốc những cụm mây hạ thấp và một vài mũi tên trắng phóng vào mặt nàng: đó là đợt tuyết rơi đầu tiên trên vùng Hamblin. Những mái nhà trên ngôi làng đơn côi nằm phía trước chỉ nửa dặm đường, nàng quyết tâm đi đến đó và cố gắng đến Núi ngay trong đêm. Nàng không có kế hoạch rõ ràng để hành động, ngoại trừ việc định cư tại đó, nàng nghĩ mình sẽ tìm Liff Hyatt để anh ta đưa nàng đến với mẹ nàng. Nàng đã được sinh ra cũng như con nàng sắp được sinh ra như vậy. Và cho dù cuộc sống của mẹ nàng như thế nào, bà không thể nhớ lại quá khứ và chấp nhận đứa con gái đang đối mặt với phiền phức như bà ngày xưa.



Dường như đã kiệt sức, nàng ngồi lại bên bờ sông tựa đầu lên một gốc cây đã cắt. Con đường xa tít và khung cảnh u ám đã biến mất trong đôi mắt nàng, và trong một lúc nàng cảm thấy mình như bay lượn xung quanh bóng tối hãi hùng. Rồi nàng ngất đi.



Khi mở mắt ra nàng thấy một chiếc xe độc mã chạy lên gần nàng và một người đàn ông nhảy xuống nhìn nàng với gương mặt bối rối. Dần dần nàng tỉnh lại và thấy đó là Liff Hyatt.



Nàng lờ mờ hiểu anh ta đang hỏi nàng điều gì đó và nàng nhìn anh ta im lặng, cố gắng lấy hơi để nói. Hồi lâu giọng nàng lúng búng trong cổ họng, rồi thều thào nói: “Tôi đi về Núi.”



“Lên Núi hả?” - anh ta lặp lại, lùi về sau một tí; và khi anh ta chuyển động nàng thấy phía sau anh ta, trong chiếc xe độc mã, một người trang phục nặng nề và gương mặt hồng hào quen thuộc mang cặp kính trên chiếc mũi giống người Hy Lạp.



“Charity! Cái gì xảy ra làm cho con ở đây vậy?” - Ngài Miles vừa kêu lên vừa ném cây roi da trên lưng ngựa và leo xuống xe độc mã.



Nàng nhướn cặp mắt nặng nề nhìn ngài: “Con đang đi gặp mẹ của con.”



Hai người đàn ông liếc nhìn nhau, và trong một lúc không ai nói lời nào.



Rồi ngài Miles nói: “Con có vẻ yếu lắm, cưng ạ, mà đường thì xa. Con nghĩ việc làm này thông minh sao?”



Charity đứng lên: “Con phải đến với bà ấy.”



Một nụ cười buồn rầu mơ hồ hiện lên trên gương mặt của Liff Hyatt, và ngài Miles ngập ngừng nói: “Con biết rồi, chắc con đã nghe kể?”



Nàng trừng mắt nhìn ngài: “Con không biết ngài nghĩ gì. Con muốn về với mẹ của con.”



Ngài Miles đang nhìn nàng một cách dò xét. Nàng thấy một sự thay dổi trong cách diễn đạt của ngài, và máu nóng phừng phừng lên trán: “Con chỉ muốn về với mẹ của con!” - nàng lặp lại.



Ngài đặt bàn tay mình trên cánh tay nàng: “Ôi, con bé bỏng của ta, mẹ con đang hấp hối. Liff Hyatt xuống để rước ta lên. Vào xe và đi với chúng tôi.”



Ngài giúp nàng lên xe và ngồi bên cạnh, Liff Hyatt leo lên phía sau, và họ chạy về hướng Hamblin. Lúc đầu Charity chưa nắm bắt được những gì ngài Miles nói nhưng khi đầu nàng hết nhức nàng bắt đầu hiểu. Nàng biết miền Núi hiếm khi giao thiệp với vùng thung lũng, nàng đã thường nghe người ta nói không ai lên trên đó ngoại trừ mục sư, khi có ai đó đang hấp hối. Và bây giờ là mẹ nàng đang hấp hối. Như vậy nàng sẽ cô đơn ở miền Núi hay bất cứ nơi nào khác trong thế giới này. Ý nghĩ chia ly không thể nào tránh khỏi là tất cả những gì nàng cảm thấy trong khoảnh khắc, rồi nàng bắt đầu lấy làm lạ tại sao ngài Miles đảm trách thi hành chuyện vặt vãnh này. Ngài không có vẻ giống như loại người cần phải lên miền Núi. Nhưng ở đây ngài ngồi bên cạnh nàng, điều khiển con ngựa với một bàn tay rắn chắc và cúi nhìn nàng với cái nhìn tử tế dưới cặp mắt kính, như thể không có gì bất bình thường trong việc họ đi chung với nhau trong những trường hợp như thế này.
Ngài Miles nắm cánh tay Charity, họ sánh vai nhau đi trước tấm nệm. Một lúc lâu bà già cầm đèn dừng lại, và Charity nhìn thấy ánh sáng rọi trên vai những người khiêng đang cúi mình trên một gò đất trên đó họ đang rẽ hướng. Ngài Miles thả tay nàng ra và đến bên phía kia của gò đất; và trong khi những người đàn ông cúi xuống thả tấm nệm vào huyệt, ngài lại bắt đầu nói:



“Con người được sinh ra bởi người đàn bà nhưng cuộc sống ngắn ngủi đầy khổ cực. Người đến và cất gánh nặng đi. Ôi, lạy Chúa lòng lành, quyền năng, nhân hậu, xin ban ơn cho chúng con khỏi những điều cay đắng ở trần gian và khỏi sự chết đời đời.”



“Được gồi (rồi), đặt bà ta xuống chưa?” - người đàn ông chủ quyền của ống khói hét như còi tàu; và người đàn ông trẻ gọi qua vai: “Liff, mang đèn lại đây, được không?”



Thời gian như ngừng trôi trong khi đó ánh đèn chập chờn trên lỗ huyệt. Có ai đó cúi xuống và giật lấy áo choàng của ngài Miles (“Không! Không! Để lại cái khăn tay.” - hắn ta can thiệp vào) và Liff Hyatt tiến về phía trước tay cầm một cái xẻng bắt đầu lấp đất.



“Vì lòng lành của Chúa toàn năng, từ bi đã đến mang linh hồn người chị em của chúng con đi, chúng con trao gửi thân thể người chị em này về lòng đất; thân cát bụi trở về nơi cát bụi...” Đôi vai gầy còm của Liff nhô lên thụp xuống trong ánh sáng cây đèn bão khi nó lấp những cục đất vào huyệt. “Chúa ơi - trời lạnh thấu xương.” - nó thì thào, chà chà hai lòng bàn tay nhau và quệt tay áo sơ mi rách bươm lên gương mặt đang toát mồ hôi của mình.



“Chúa Giê-su, Chúa chúng ta, Người sẽ thay đổi thân xác hèn mọn của chúng ta để trở thành thân xác vinh quang của Người, nhờ quyền lực toàn năng của Người. Người có thể chinh phục mọi thứ về với Người.”



“Chúa đổ tràn lòng thương xót xuống chúng ta, Chúa đổ tràn lòng thương xót xuống chúng ta, Chúa đổ tràn lòng thương xót xuống chúng ta...”



Ngài Miles lấy cây đèn từ tay bà già và quét một vòng ánh sáng qua những gương mặt lờ mờ. “Bây giờ tất cả cùng quỳ xuống!” - ngài ra lệnh, trong một âm điệu mà Charity chưa bao giờ nghe. Nàng quỳ xuống bên cạnh mộ, còn những người khác lúc đầu không tuân lệnh hoặc chần chờ, rồi cũng quỳ theo bên cạnh nàng. Ngài Miles cũng quỳ xuống. “Và bây giờ hãy cầu nguyện cùng ta - tất cả chúng ta biết kinh cầu nguyện này.” - ngài nói và bắt đầu: Lạy cha chúng con ở trên trời “ Một vài người đàn bà ngập ngừng bắt cao giọng lên và khi ngài chấm dứt, người đàn ông tóc lưa thưa nói với người trẻ bằng cái giọng trong cổ họng: “Có ngày rồi cũng chết cái kiểu này, Tau đã bảu (bảo) nó đêm trước gồi (rồi), tau nói với nó.” - Sự hồi tưởng của ông ta chấm dứt bằng một tiếng nấc.



Ngài Miles lấy lại chiếc áo choàng. Ngài đến bên Charity còn đang quỳ gối một cách bất động bên núm đất vừa mới đắp.



“Con yêu, con phải đi, đã trễ lắm rồi.”



Nàng nhướn con mắt lên nhìn ngài: dường như ngài đang nói từ một thế giới khác.



“Con không thể đi: con sẽ ở lại nơi này.”



“Đây hả? Ở đâu? Con nghĩ gì vậy?”



“Đây là những người của con. Con sẽ ở lại với họ.”



Ngài Miles hạ giọng: “Nhưng không thể được, con không biết con đang làm gì. Con không thể ở giữa những người này: con phải đi với ta.”



Nàng lắc đầu và đứng lên. Nhóm người tản đi trong màn đêm, nhưng bà già cầm cây đèn đứng chờ. Gương mặt bà buồn bã héo hắt nhưng không gian ác, và Charity đi đến bên bà.



“Bà có chỗ cho cháu nằm ngủ đêm nay không?” - nàng hỏi. Liff đến dẫn theo xe ngựa ra đi trong đêm tối. Nó nhìn người này rồi người kia với nụ cười yếu đuôi: “Bà là mẹ tui. Bà sẽ dẫn cô về nhà.” - nó nói và rướn gân cổ lên nói to với mẹ nó: “Đó là cô gái ở nhà ông luật sư Royall - con gái của bà Mary. Mẹ nhớ nhé”



Người đàn bà gật đầu và nhướn đôi mắt buồn rầu nhìn vào đôi mắt của Charity. Khi ngài Miles và Liff leo lên xe, bà ta đi trước để chỉ cho họ đường mà họ phải đi, rồi im lặng quay trở lại cùng Charity đi qua bóng đêm.