Nam Quốc Sơn Hà

Chương 10 : Hoa trong giấc mộng

Ngày đăng: 09:02 19/04/20


Cái tin Chương-thánh Gia-khánh hoàng-đế của Ðại-Việt sẽ đến chùa Pháp-vân để làm lễ cầu siêu cho oan hồn tướng-sĩ cùng dân chúng bỏ mình trong cuộc Nam xâm của Tống năm Kỷ-hợi (1059) và cuộc đánh sang vùng Ung-châu, Khâm-châu, Liêm-châu, Tây-bình châu năm Canh-Tý (1060) của Ðại-Việt để tự vệ... lan ra khắp vùng Kinh-Bắc rất mau. Tại các đình làng, tiên-chỉ, thứ-chỉ, chánh phó lý trưởng, thủ-bạ, trương-tuần họp hành liên miên để cắt cử người sửa đường, làm cỏ, cắt cây, tu bổ cầu cống, sao cho thực chu đáo, để đón một vị vua nhân từ, anh hùng của giòng giống Tiên-Rồng đi qua. Mỗi làng sẽ làm một cái cổng chào, kết hoa. Khi đức vua tới đầu làng nào, thì chức sắc trong làng sẽ dâng lên ngài một vài thổ sản quý nhất của làng. Ðám hoàng nam sẽ thao diễn võ thuật, bắn cung, xung phong hãm trận cho ngài cùng các quan xem, để ngài biết rằng nhờ đức nhân của ngài, làng luôn dạy dỗ con em học văn, luyện võ; bất cứ lúc nào xã-tắc hữu sự là có thể dùng đến. Khi ngài qua đình làng, thì sẽ đốt pháo mừng, rồi một đội hoàng nam múa sư tử, đội thanh nữ múa một vũ điệu, chào mừng.



Ðiều quan trọng nhất là sao cho dân chúng hiểu về tình hình đất nước. Cho nên tối tối, tại trường học, đình làng các thầy đồ họp học trò, dân chúng để kể chuyện về việc binh biến năm Kỷ-hợi, Canh-Tý giữa ta với Tống.



...Dân chúng say mê nghe chuyện Tống triều sai bọn biên thần Nam-phương là Tiêu Chú, Tiêu Cố, Lý Sư-Trung, Tống Hàm chuẩn bị mộ quân, luyện quân, tích trữ lương thảo gây thanh thế lớn, rồi dẫn quân tuần sát các trang động Bắc-biên để đe dọa khiến nhiều trang-động phải bỏ theo Tống. Triều đình Ðại-Việt sai ngài Thái-tử thiếu bảo, Tả-kiêu-vệ đại tướng quân, Thái-hà hầu Lý Thường-Kiệt mang mười đạo Thiên-tử binh lên tiếp viện cho vua Bà.



... Nào việc vua Bà chia quân làm hai cánh, cánh hư do Long-thành ẩn-sĩ Tôn Ðản cùng phu nhân chỉ huy đánh sang Khâm-châu, Liêm-châu.



... Nào Tống mắc mưu, tràn qua vùng Lạng-châu theo kế hoạch Vây Nguy, cứu Triệu, đến nỗi tướng Tống là Ðô-giám tuần kiểm Tống Sĩ-Nghiêu bị bại, quân tướng bị bắt bị giết hết, y chạy theo đường rừng về, đến nỗi chỉ còn cái quần lót.



... Nào sau đó vua Bà cùng phò mã Thân Thiệu-Thái vượt biên đánh sang Tống. Tống đem quân chống cự, bị bại. Các tướng Tống Sĩ-Nghiêu, Lý Ðức-Dụng, Tả Minh, Hà Nhuận, Trần Bật tử trận. Nào Tống thấy nguy, sai Dương Lữ-Tài đem đại quân ngăn bước tiến của Ðại-Việt. Quân tan, Lữ-Tài bị bắt.



... Nào Tống phải sai Lại-bộ thị-lang Dư Tĩnh sang ta xin nghị hòa, để xin ngừng tiến quân.



... Nào đức vua "ta" đồng ý thả Lữ-Tài, nhưng vua Bà không chịu, đòi Tống phải tuân ba điều kiện...



Có thể nói, dân chúng trong các làng, từ già đến trẻ đều biết đầy đủ tin tức Bắc-biên của ta. Hôm nay các làng đều nhận được một mật lệnh từ Thăng-long gửi về.



Khác với mọi lần, tin tức, mật lệnh thường được huyện gửi về cho chức dịch, hoặc thầy đồ. Hôm nay một kị mã từ Thăng-long về làng, kị mã không phải những kị mã chạy trạm thông thường, mà là một thị vệ của đức vua. Thị vệ trao tận tay cho thầy đồ Thái một phong thư, cùng một gói bạc. Trên phong thư đóng ấn của quan tổng-lĩnh thị-vệ, kiêm tổng-quản thái-giám Lý Thường-Kiệt. Ngoài phong thư có chữ son đỏ: "Chỉ thầy đồ Thái mới được mở ra. Sau khi đọc xong, thầy phải đốt mật lệnh trước mặt viên thị vệ". Biết tầm quan trọng của mật lệnh, nên trong làng, ngoài xóm không ai dám tò mò hỏi thầy đó là lệnh gì? Vì sao vua ban hành cho.



Chiều hôm ấy, thầy đồ Thái gọi anh mõ tới nhà thầy. Thầy trao cho anh một xâu trăm đồng tiền, rồi nói:



– Tôi thưởng cho anh đấy, anh mua rượu mà uống, rồi anh đi khắp làng rao bốn lần: sáng, trưa, chiều, mời tất cả dân làng tới nghe tôi kể chuyện.



– Bẩm thầy chuyện gì mà phải rao tới bốn lần ạ?



– Chuyện rất quan trọng, nên tôi thưởng cho anh trước đấy. Anh rao nguyên văn rằng:



"... Theo thần nhân báo mộng, có một tiên nữ giáng trần ở Thổ-lội, khi đức vua trẩy chùa Pháp-vân sẽ đón vị tiên đó về làm Thần-phi. Yêu-cầu quan viên, dân chúng trong làng, ngày mai phải tới đình nghe tôi kể chuyện này. Buổi sáng dành cho chức dịch, nhân sĩ. Buổi trưa dành cho đàn bà, buổi chiều dành cho thanh nữ, buổi tối dành cho đàn ông".



Thôi anh đi đi.



Anh mõ mới rao một lần quanh làng, mà cả tổng đã rúng động. Ba trường học làng Thổ-lội đều đóng cửa, vì học sinh bàn tán, không thể học được. Ngoài chợ, đầu làng, cuối xóm đều tụ năm túm ba xôn xao không ít. Như thường lệ, mỗi khi thầy đồ kể chuyện bao giờ cũng bắt đầu từ giờ Mão, thế mà hôm nay, mới giờ Dần, mà các nhân sĩ, lý dịch, đã tề tựu đầy đủ. Khi lá cờ mầu tím do ông thủ-bạ từ từ kéo lên trước sân đình, thì anh mõ sẽ đánh ba hồi trống (1).



Ghi chú,



(1) Theo sử chép rằng, khoa Thiên-văn lịch-số Ðại-Việt có từ thời vua Hùng. Vua sai chép phép làm lịch vào lưng một con rùa đem cống vua Nghiêu. Vua Nghiêu sai chép lại, rồi học theo đó mà làm lịch Trung-quốc, đó là nguồn gốc Quy-lịch. Không rõ bấy giờ báo giờ như thế nào. Nhưng tới triều Lĩnh-Nam, quan Ðại-tư-đồ là công chúa Nguyệt-đức Phùng Vĩnh-Hoa đã nghiên cứu lịch Hồng-bàng, rồi làm ra lịch mới, thể lệ báo giờ như sau: mỗi đầu giờ ban ngày đánh ba tiếng trống, rồi kéo cờ biểu hiệu lên. Giờ Dần cờ xanh, giờ Mão cờ tím, giờ Thìn cờ vàng, giờ Tỵ cờ hồng, giờ Ngọ cờ Ðỏ, giờ Mùi cờ vàng nhạt, giờ Thân cờ trắng. Ban đêm thì không kéo cờ, mà đánh chiêng, trống. Giờ Dậu thì ba tiếng chiêng, giờ Tuất thì hai tiếng chiêng. Giờ Tý thì một tiếng trống. Giờ Sửu thì hai tiếng trống. Xin đọc Cẩm-khê di hận, của Yên-tử cư-sĩ do Nam-á Paris xuất bản. Ðến đời Lý vẫn áp dụng nguyên tắc đó.



Thầy đồ Thái quần áo chỉnh tề, đứng đối diện với cử tọa. Thầy cung tay làm lễ chào mọi người, rồi trịnh trọng nói:



– Thưa các vị, hôm nay tôi được hầu chuyện với các vị về Anh linh thần vũ của Chương-thánh Gia-khánh hoàng đế bản triều.



Nghe đến hoàng-đế đương triều, mọi người đều im lặng, tỏ vẻ kính cẩn.



Thầy đồ tiếp:



"...Cho đến nay, Chương-Thánh Gia-Khánh hoàng đế tuổi đã bốn mươi, mà vẫn chưa có hoàng tử để nối dõi ngôi trời. Mặc dù trong cung có Thượng-Dương hoàng hậu, cùng năm vị phi là tuyên-phi, quý-phi, giai-phi, dung-phi, nghi-phi... nhưng các vị phi chỉ sinh ra công chúa. Có công chúa đã đi vào tuổi hai mươi, có công chúa mới một hai tuổi. Thái-hậu lo lắng không ít, ngài khuyên đức vua nên lập con chư vương làm thái tử để nối tiếp ngôi chính thống. Nhưng hoàng thượng vẫn bảo để chờ Thanh-y đồng tử giáng sinh..."



"... Hồi hoàng thượng còn nhỏ, bấy giờ vua Thái-tông còn là Khai-thiên vương. Một đêm hoàng thượng mộng thấy mình lên thiên cung chầu Ngọc-Hoàng thượng đế. Ngọc-Hoàng thượng đế truyền chỉ cho ngài rằng:



– Người là con vua Viêm-đế giáng sinh, sau này sẽ làm chúa phương Nam, vậy khi lên ngôi vua, thì phải lấy đức nhân mà trị dân, cho đúng với ý ta. Bằng không ta sẽ sai Thiên-lôi đánh chết, nghe không?



Giữa lúc ấy có một trong Thập-điện Diêm-vương tâu rằng:



– Hồi Lý Ðức-Chính (vua Lý Thái-Tông) cầm quân đánh Chiêm-thành, để tướng sĩ giết oan binh lính người Chiêm nhiều quá, trong đó một phi tần, và bẩy mươi hai cung nữ, bị giết oan. Ngọc-Hoàng đã truyền chỉ cho phi tần đầu thai, nay đã làm con dâu Ðức-Chính, tức vợ Nhật-tông. Nhưng còn bẩy mươi hai cung nữ vẫn chưa đầu thai, oan hồn chúng phiêu phiêu phưởng phưởng không nơi nương tựa, ngày đêm gào khóc, một hai đòi lên trần thế đòi nợ triều Lý. Xin Ngọc-Hoàng thượng đế định liệu.



Ngọc-Hoàng phán:



– Cho 72 oan hồn cung nhân đầu thai làm cung tần triều Lý, tướng sĩ Chiêm đầu thai làm bọn gian thần triều Lý để chúng hợp với con dâu Ðức-Chính phá phách giang sơn Ðại-Việt.



Thái-Bạch kim tinh tâu rằng:



– Trước đây Ngọc-Hoàng đã truyền chư tiên, chư thần thay nhau đầu thai xuống Nam-phương để kiến tạo lại Ðại-Việt, vì vậy nên con vua Thanh-Ðế đầu thai làm Thái-tổ Lý Công-Uẩn lập ra triều Lý dài trên hai trăm năm; lại cho Vũ-khúc tinh quân đầu thai làm Khai-quốc vương Lý Long-Bồ. Nay cho oan hồn người Chiêm đầu thai xuống thế, e họ phá hỏng giang sơn Ðại-Việt.



Ngọc-Hoàng thượng đế phán:



– Vậy hãy cho Thanh-y đồng tử giáng sinh, làm con của Nhật-Tông. Lại cho Hằng-Nga tiên nữ giáng trần làm vợ Nhật-tông, làm mẹ của Thanh-y đồng tử. Hằng-Nga với Thanh-y sẽ tùy nghi, khi thấy bọn oan hồn Chiêm quấy phá Ðại-Việt quá thì trừ đi..."



"... Từ khi hoàng-thượng lên ngôi, tuy có hoàng hậu, phi tần, nhưng chưa sinh hoàng nam, ngài vẫn kiên nhẫn chờ Hằng-Nga tiên nữ, cùng Thanh-y đống tử. Năm gần đây, quan Tư-thiên-giám xem thiên tượng, thấy hào quang, mây hồng chiếu về vùng Kinh-bắc, ứng vào với Hằng-Nga, tâu lên thiên-tử. Vì thế nên đức vua ta quyết đi hành hương chùa Pháp-vân, để tìm xem thanh nữ nào là Hằng-Nga tiên nữ giáng trần, sẽ đem về cung phong làm Thần-phi..."



"...Theo tôi nghĩ, không chừng Hằng-Nga tiên nữ gáng trần ngay trong làng mình cũng nên. Vậy xin các cụ, các ông cho tất cả con cháu gái, có nhan sắc, có đức hạnh tuổi từ mười ba trở lên, mặc quần áo thực đẹp cùng ra đình làng đón đức vua. Nếu như cô nào là Hằng-Nga tiên nữ đức vua chỉ nhìn sơ là nhận ra ngay. Hỡi ơi! Bấy giờ thực là vạn vạn hạnh cho làng ta. Trai tráng làng ta sẽ khỏi phải chịu binh dịch, lao dịch. Dân làng không phải đóng thuế. Toàn làng được thụ tam ân...(2)".



Ghi chú,



(2) Tam-ân là ba thứ ân huệ nhà vua dành cho làng xã sinh ra thái hậu, hoàng hậu, cung nga ở bậc "phi" trở lên. Tùy theo triều đình Ðại-Việt ấn định tam ân khác nhau. Ðời vua Lý Thánh-tông thì tam ân là:



– Tam đại thọ phong, tức ông bà nội ngoại, bố mẹ, anh chị em được phong những chức tước nhỏ.



– Hương lý thọ đức, tức dân làng được nhờ ân đức. Trai được bổ nhiệm làm quan theo chế độ ưu đãi, gái được tuyển làm vợ các quan, tướng cùng con vua, con quan.



– Hình-pháp thọ nghị, tức người trong làng khi phạm tội, sẽ được xử ân giảm từ một đến ba bậc.



Thế rồi sau ba buổi thuật chuyện của thầy đồ Thái, khắp làng tổng Dương-quang như muốn nổ tung ra vì những lời bàn tán, kẻ thì bảo cô này là Hằng-Nga giáng trần, người thì bảo cô kia mới đúng. Bàn cho thực phải, khắp tổng Dương-quang có đến hơn nghìn cô gái đang ở tuổi mười ba đến hai mươi. Các tiên chỉ, lý trưởng, hương dịch họp hành liên miên hầu chọn những cô đức hạnh tốt, tề gia nội trợ giỏi, lại có nhan sắc, để đem ra đình làng đón đức vua. Trong thâm ý họ nghĩ rằng, nếu các cô chẳng phải là Hằng-Nga giáng trần, nhưng biết đâu, hợp nhãn đức vua, được ngài tuyển làm cung nữ cũng đã lấy làm hãnh diện cho hương đảng rồi.



Ông bà Lê Văn-Thiết nhận được lệnh làng phải đem Minh-Ðệ, Minh-Can ra cho làng tuyển chọn. Chiều hôm ấy, ông bà vừa đi làm về, thì thầy đồ Thái trưởng giáp Nhất tới. Ông bà ân cần sai Minh-Can pha nước mời thầy. Thầy nói:



– Chuyện đức vua đi tìm Hằng-Nga giáng thế ở vùng ta, ông bà đã biết rồi đó. Theo lệnh của làng, thì nhà này có Minh-Ðệ, Minh-Can phải ra cho làng chọn. Vậy ông bà nên may quần áo, giầy dép thực đẹp cho hai cháu, để mấy hôm nữa làng sẽ tuyển. Nếu hai đứa trúng cách, sẽ được làng xếp vào đoàn thanh nữ đứng đón đức vua. Biết đâu hai đứa nhà này chẳng được đội hoàng ân?



Bà Thiết trả lời không suy nghĩ:



– Nhà này có ba đứa con gái, thì con Minh-Nhàn nhỏ tuổi quá, chưa được dự tuyển. Chỉ còn hai con Minh-Ðệ, Minh-Can mà thôi. Biết con ai bằng cha mẹ. Con Minh-Can nhà tôi vừa nết na, văn hay, chữ tốt, võ giỏi, đức hạnh khó kiếm, nhan sắc của nó thì Tây-thi, Dương-phi còn thua xa, tôi e chính nó là Hằng-Nga giáng trần đấy thầy ạ. Còn con Minh-Ðệ, ăn không nên đọi, nói không nên lời, vụng về, cục mịch, năm trước đây bỏ nhà trốn sang ở chùa Từ-quang, ăn nằm với mấy nhà sư một lúc. Án này rung động cả Kinh-Bắc. Cũng may quan tể-tướng thương tình đem nó trao trả cho chúng tôi quản chế... vì vậy đâu có thể đem nó ra cho làng nghị sự mà xấu hổ à?



Thầy đồ Thái thấy bà Thiết yêu con này, ghét con kia quá đáng, thì hơi bực mình. Thầy nói:



– Tôi chỉ chuyển lệnh mà thôi, còn chấp hành hay không là việc của ông bà. Lệnh trên đưa xuống rằng: tất cả thanh nữ trong tuổi 13-18 đều phải đem ra cho làng tuyển. Ban nãy bà nói: biết con không ai bằng cha mẹ, thì tôi cũng xin thưa rằng hiểu tài năng học trò không ai bằng thầy. Tôi có thể tóm lược cho bà biết rằng về văn tài của Minh-Ðệ thì toàn cõi Ðại-Việt e không quá mười, về võ công thì e đếm trên bàn tay. Thôi tôi xin lui.



Thầy đồ Thái về rồi, thì bà Thiết gọi Minh-Ðệ, Minh-Can lên nhà, bà nói với chồng:



– Hôm trước thầy đồ Thái có kể chuyện đức vua đến vùng này tìm Hằng-Nga, hai đứa đều đã được nghe. Nay làng lệnh cho hai đứa, ngày mai ra đình cho làng tuyển chọn. Tôi nghĩ chắc Minh-Can là Hằng-Nga quá, thôi thì chỉ cho nó ra thôi. Còn con nợ đời kia, ông nghĩ nên dấu nó đi đâu cho khỏi chướng mắt!



Ông Thiết biết vợ thiên vị, vì hồi này người Minh-Ðệ thon lại, trở thành sắc nước hương trời. Nhưng chẳng qua là số kiếp, nên bị mẹ hắt hủi mà thôi. Ông nói:



– Tôi thì tôi nghĩ mình cứ theo đúng lệnh của làng. Nếu con Minh-Can có là Hằng-Nga thì khi đức vua thấy, ngài sẽ nhận ra, chứ nay không cho Minh-Ðệ dự tuyển, thì e rằng làng bắt lỗi.



Lập tức bà Thiết rống lên, bà xỉa xói vào mặt ông chồng:



– Ông nói! Ðem cái bị thịt này ra cho làng, để mà làng chửi cho à? Ông có biết nó ngủ với một lúc năm sáu thằng sư ở chùa Từ-quang không?



Minh-Ðệ thấy bố mẹ cãi nhau vì mình, thì nàng nói:



– Thưa bố, con không muốn ra cho làng tuyển đâu. Dù làng có tuyển, con cũng không nhận kia mà. Làng mình, lớn nhất là Trung-nghiã đại tướng quân, Siêu-loai hầu, mà chính y cũng không đủ trung, đủ nghĩa thì những cái ngữ như ông lý, ông xã đâu có tư cách mà tuyển con? Hiện nay hậu cung thì chia làm hai phe, phe ủng Dương, phe ủng Mai bôi mặt đá nhau. Các quan thì phân bè đảng hiềm khích nhau, như vậy cái ông Chương-thánh Gia-khánh không phải là minh quân. Con không đi đón ông ta đâu.



Từ lâu rồi, ông bà Thiết chưa từng nói chuyện với Minh-Ðệ, nên ông bà không biết rõ kiến thức của con đến đâu. Nay thình lình ông thấy nàng trình bầy ra vấn đề ngoài sự hiểu biết của mình, thì kinh ngạc không ít.



Bà quát lên:



– Mày láo vừa thôi, mày dám nói xấu ông Trung-nghĩa thì học trò ông ấy nó sẽ gang miệng mày ra đấy.



– Xin mẹ cứ yên tâm, con nghĩ ông ấy không có tư cách, e học trò ông ấy không thể làm gì ai. Còn như ông ấy có tài, thì cứ đến đây mà lý luận với con. Con đủ khả năng đương đầu với ông ấy.



Nói rồi nàng từ tạ bố mẹ, xuống nhà dưới cho lợn ăn.



Từ hôm tên Ðoàn Quang-Minh, với Minh-Ðệ bị trúng Chu-sa huyền-âm độc đến giờ, thì hằng đêm chúng phải ra miếu thổ thần loan báo tất cả những gì nàng sai chúng dò thám trường Trung-nghĩa cho nàng. Ðến đúng giờ Tý, khi chúng lên cơn, nàng lại điểm huyệt cho chúng mê đi. Tính đến hôm nay, chúng đã chịu tới ba mươi ngày đau đớn, và nàng đã tra khảo hết sức, nên dù đứng gần cái ngày thứ 49 sẽ bị chết, mà chúng cũng không biết gì hơn. Quang-Minh với Minh-Can đã chờ ở đó từ bao giờ. Chúng làm xong tờ khai, trao cho nàng. Dưới ánh sáng ngọn đèn dầu, Minh-Ðệ cầm tờ khai lên đọc:



"...Dương hậu ban chỉ cho sư phụ là Trịnh Quang-Thạch phải phái người dò thám chùa Từ-quang. Sư-phụ mua chuộc được sư Viên-Hoa, đệ tử của sư Viên-Chiếu, nên nhất cử, nhất động của chùa Từ-quang sư phụ đều biết hết. Ngay ngày đầu cô nương tới chùa thì sư phụ đã được báo cho biết. Vì vậy sư phụ sai tiểu nhân bảo Minh-Can lấy tất cả quần áo của cô nương giao cho Viên-Hoa. Một mặt sư phụ trao cho Viên-Hoa nào xương chó, xương gà, lông gà, lông chó, bí mật chôn ở trong vườn hoa của chùa. Sau đó sư phụ sai các sư đệ Ðặng Vinh, Ðặng Minh, Lê Kim-Cương, Phạm Trung làm quan võ trong lộ Kinh-Bắc đứng đơn tố cáo lên an-phủ kinh-lược sứ Phạm Anh. Phạm Anh hẹn ngày đem quân đến chùa khám xét. Ðúng đêm đó, Viên-Hoa bí mật dấu quần áo cô nương vào các tăng phòng, đem mấy nồi thịt chó dấu trong bếp. Còn việc quý nhân với vợ đến chùa, cùng vụ Trần Tự-An dạy võ cho cô nương, thì tiểu nhân không hề biết. Có khi vụ này do quan tể-tướng làm, chỉ ngài với sư phụ biết. Cũng có thể sư phụ sai người khác làm. Còn sư Viên-Hoa tuy có bị kết án, nhưng Dương tể tướng đã tìm cách cải án cho ông ta, và cấp độ diệp cho ông ta làm trị sự trưởng chùa Từ-quang...»



Cầm tờ khai, Minh-Ðệ kinh hoàng nghĩ:



– Hôm ở phủ An-vũ kinh-lược sứ, sư Viên-Hoa tỏ ra hiếu thảo, sẵn sàng thụ hình cho sư phụ, cho sư huynh sư đệ, rồi sau đó hình quan không khảo nữa. Thì ra y thi hành khổ nhục kế để che mắt mọi người. Hôm ấy từ hình quan, cho tới chư tăng đều kính phục y là người chí hiếu. Không ngờ!!! Bây giờ y làm trị sự trưởng chùa Từ-quang, vậy ta phải thám thính chùa này xem. Ừ, nhưng ta là con gái, mà đi đêm thế này, bất cứ ai trông thấy cũng phiền phức. Chi bằng ta giả trai. Ðược, ta lấy quần áo của bố mặc vào, rồi quấn khăn lên đầu thì có trời mà nhận ra.



Nghĩ vậy, nàng điểm huyệt cho Quang-Minh, Minh-Can mê đi, rồi về nhà tìm quần áo của phụ thân. Nhưng tất cả quần áo của ông Thiết đều quá rộng so với cơ thể nàng. Chợt thấy một cái túi vải nâu, Minh-Ðệ mở ra xem, thì ra bộ quần áo cùng mũ nhà sư, mà hồi hai mươi thân phụ nàng đi tu một năm để cầu siêu độ cho tiền nhân, ông vẫn giữ làm kỷ niệm. Minh-Ðệ lấy ra mặc thử, thì vừa khít. Nàng đội mũ tu lờ che hết tóc, rồi ra đi. Chợt nhớ ra một điều, nàng hái mấy lá ổi, nhai và nuốt đi, sau đó nói thử mấy tiếng, tiếng nàng trở thành khàn khàn như đàn ông.



Minh-Ðệ tìm cách chui ra khỏi lũy tre làng, đến chùa Từ-quang. Nhìn ngôi chùa nằm im lìm trong đêm, ngoài cổng có hai con ngựa cột vào gốc cây. Minh-Ðệ nghĩ thầm:



– Tại sao lại có ngựa ở đây? Khách nào đã đến chùa?



Nhớ lại thời gian sống trong chùa Từ-quang với sư Viên-Chiếu, ông đã cho nàng biết bao nhiêu tình cảm, bao nhiêu thương xót, nhưng không biết nay ông ở đâu? Thương cảm dâng lên trong lòng Minh-Ðệ:




– Sư phụ, xin sư phụ thu thập nhà sư nhỏ bé kia dùm.



Nhà sư đứng cạnh Triệu Thự phát một chiêu chưởng đánh gió rồi cung tay nói:



– Tiểu sư phụ, bần tăng pháp danh Pháp-Nhẫn, thuộc phái Thiếu-lâm. Bần tăng tuân chỉ của Tần-vương, xin lĩnh mấy cao chiêu của tiểu sư phụ. (5)



Ghi chú,



(5) A-di-đà Phật, xin thượng tọa Pháp-Nhẫn trị sự trưởng chùa Liên-hoa, Dallas, bang Texas, Hoa-kỳ cùng chư vị Phật-tử, từ bi hỷ xả đại xá cho, về sự trùng pháp danh này. Ðại-sư Pháp-Nhẫn chùa Thiếu-lâm (1005-1088) xuất thân tiến sĩ, nhưng ngài giác ngộ, bỏ chốn bụi trần xuất gia. Ngài là một Bồ-tát, vì thương xót sinh linh Hoa-Việt, nên đã hết sức cản cuộc xâm lăng của Tống vào thời vua Anh-Tông. Xin đọc những hồi sau để biết hành trạng của ngài.



Từ lúc bọn Tống xuất hiện đến giờ, lúc nào Minh-Ðệ cũng thấy nhà sư nói năng ôn tồn, gương mặt từ ái. Vừa rồi ông ra một chiêu đẩy nàng lui lại, rõ ràng ông chỉ vận có ba thành công lực, mà nàng đã cảm thấy rung động toàn thân. Biết có đấu cũng vô ích, nàng cung tay:



– A-di-đà Phật, thì ra đại sư là thủ tọa La-Hán đường phái Thiếu-lâm đấy. Tiểu tăng không dám đấu với đại sư, vì không thể địch nổi đại sư.



Pháp-Nhẫn nói với Triệu Thự:



– Tiểu sư phụ đây chịu thua, vây xin Vương gia phát lạc.



Triệu Thự nói:



– Cũng dễ thôi, vì tiểu sư phụ biết hết bí mật của cô gia, thì không thể để tiểu sư phụ đi được. Vậy tiểu sư phụ phải theo cô gia về Trung-nguyên, đến khi nào cô gia tiến quân về phương Nam, bấy giờ cô gia sẽ để tiểu sư phụ trở về.



Bỗng có tiếng cười khúc khích:



– Ðâu phải mình tiểu sư phụ biết, mà bọn ta cũng biết nữa mà!



Triệu Thự quát lên:



– Ai?



Hai bóng người từ trên nóc chùa đáp xuống nhẹ như chiếc lá. Minh-Ðệ nhìn kỹ thì ra Công-chúa Thiên-Thành với Thế-tử Thân Cảnh-Long mà nàng đã gặp ở Khu-mật-viện năm trước. Nàng nhớ rõ hôm đó hai người đã quát quân lính không được gông nàng. Nàng đồ chừng hai người này đã tung thuốc cứu nàng và làm Tiêu Chú tê liệt. Nàng vội vội cung tay:



– Tiểu tăng xin tham kiến Công chúa điện hạ cùng Thế tử. Ða tạ Công-chúa với Thế-tử đã cứu mạng.



Tiêu Chú chỉ mặt công chúa Thiên-Thành với thế tử Thân Cảnh-Long quát lớn:



– Thì ra hai đứa mi đã dùng thịt chó ám toán ta.



Tiêu Chú bị thua nhục nhã quá, run lên lật bật, tay chỉ thế tử Thân Cảnh-Long:



– Mi ẩn thân hại ta! Hãy lĩnh một chưởng.



Nói rồi y phát một chiêu bằng tất cả bình sinh công lực đánh vào người thế tử. Cảnh-Long cười nhạt tung chưởng trả đòn. Bình một tiếng, cả hai người đều lảo đảo lui lại, gật gù nhìn nhau:



– Bái phục.



Tiêu Chú biết khó thắng Cảnh-Long, y đánh trống lảng nói với Triệu Thự:



– Khải vương gia, thần nghe nghe Nam-bình vương Lý Nhật-Tông gả con gái là quận chúa Thiên-Thành cho con trai vua bà Bình-Dương với Thân Thiệu-Thái là Thân Cảnh-Long. Có lẽ đôi trai gái này là Thiên-Thành, Cảnh-Long.



Công chúa Thiên-Thành dường như không coi vợ chồng Triệu Thự cùng Tiêu-Chú vào đâu. Nàng cung tay hành lễ với đại sư Pháp-Nhẫn:



– A-di-đà Phật, đệ tử tham kiến đại sư. Không ngờ Phật giá quang lâm Ðại-Việt, đệ tử không biết để nghinh đón, thực có tội.



Pháp-Nhẫn đáp lễ:



– Không dám. Bần tăng theo phò Tần-vương, nhập cảnh Ðại-Việt không chính thức, thì thực vô lễ, công chúa không trách phạt là may rồi. Ban nãy bần tăng thấy công chúa ném thịt chó, tung thuốc cứu tiểu sư phụ, rồi đánh Tiêu cư sĩ, thì đã biết rằng có cao nhân ẩn nấp quanh đây. Không ngờ cao nhân đó là Công-chúa và Thế-tử.



Thế-tử Thân Cảnh-Long đáp:



– Ðại sư lầm rồi, người ném thịt chó là Mộc-Tồn hòa thượng. Hoà thượng đã đi rồi. Còn người tung thuốc cứu tiểu-sư phụ là cao nhân khác, không phải anh em đệ tử.



Công chúa chỉ tay vào mặt Tiêu Chú:



– Tên mặt dơi tai chuột kia, chính mi đã xúi dục đồng liêu, cùng tâu về Tống triều chủ xâm Ðại-Việt ta. Năm trước mi bị Nùng Trí-Cao đánh cho chạy dài, thế mà mấy năm nay mi hết luyện quân, lại xui dục, ép buộc các khê động thuộc Ðại-Việt về với Tống. Năm rồi cô mẫu ta tiến quân sang trừng phạt, như thế mi cũng cho là chưa đủ sao mà còn dẫn xác sang đây?



Nàng cung tay nói với Triệu Thự:



– Thái-tử, thân thế Thái-tử cao sang biết mấy, mà sao lại lặn lội sang đây làm chi? Thái-tử ơi, tôi biết Thái-tử nhập cảnh vi luật, nhưng không dám phiền trách Thái-tử, vì biết rằng Thái-tử sắp qui tiên. Người chết là hết, tội trạng cũng đi theo, nên tôi không thể nặng lời với Thái-tử.



Triệu Thự kinh hãi hỏi:



– Công-chúa nói sao? Cô gia sắp hoăng ư? Cô gia vẫn khỏe mạnh, có bệnh tật gì đâu?



Công chúa Thiên-Thành cau mặt lại, rồi lắc đầu:



– Hỡi ôi! Thái-tử nổi tiếng là minh mẫn, tiếng đồn sang đến Ðại-Việt, mà Thái-tử lại không biết mình sắp chết sao?



– Làm gì có chuyện đó!



– Thôi được, tôi vì Thái-tử mà nói ra căn bệnh của Thái-tử.



Nàng hắng một tiếng rồi nói



– Thái tử chỉ là một người cháu của Gia-Hựu hoàng đế, được nuôi làm con, địa vị không lấy gì làm chắc cho lắm. Kể ra, ngang vai với Thái-tử có hàng mấy trăm người đang ngấp nghé, bới lông tìm vết để hạ Thái-tử xuống rồi lên thay. Không lẽ Thái-tử lại không nhận ra điều đó?



Tiêu Chú cười nhạt:



– Kẻ ngu phu, ngu phụ ai mà chẳng nhận ra lẽ đó, nhưng chúa công tôi vị đã chính, thì còn ai ngấp nghé nữa? Quận chúa luận bề ngoài thì sao mà đúng được?



Minh-Ðệ nghe Tiêu Chú nói, nàng nổi giận nghĩ thầm:



– Tên chủ Nam xâm này ghê thực. Trong khi Thái-tử của chúng còn phải một lời Công-chúa, hai lời Công-chúa, mà y lại gọi công chúa Thiên-Thành bằng quận chúa, tức y coi hoàng-đế Ðại-Việt chỉ là thần tử nhà Tống với tước Nam-bình vương mà thôi.



Công chúa Thiên-Thành mắng Tiêu Chú:



– Tên mặt dơi tai chuột kia! Ta đang nói chuyện với chúa người, người có tư cách gì mà xen cái mõm thối tha vào?



Nói dứt lời, nàng rút kiếm, rồi xẹt tới như tia chớp, mọi người nhìn rõ nàng đưa kiếm vào cổ Tiêu Chú. Kinh hoàng y lộn đi ba vòng tránh đòn. Nhưng kiếm theo y như bóng với hình. Sợ quá y thét lên, lăn mình xuống đất, rồi tung mình đứng dậy. Khi chân y vừa chạm đất, thì y cảm thấy cổ đau nhói. Thì ra mũi kiếm thủy chung vẫn chỉ vào cổ y. Y tung mình lên cao, tay rút kiếm ra đỡ, nhưng chỉ thấy thấp thoáng một cái, rồi hai tiếng loảng xoảng phát ra, Tiêu Chú nhảy lùi lại, tay trái ôm cườm tay phải, máu ra lệnh láng, trong khi kiếm của y rơi xuống đất.



Công chúa Thiên-Thành lại mắng y:



– Lần đầu ta tha chết cho mi, lần sau ta lấy mạng mi, mi liệu hồn.



Tiêu Chú run lẩy bẩy, trong khi đại sư Pháp-Nhẫn băng bó vết thương ở tay cho y. Y nghĩ thầm:



– Long-biên kiếm pháp quả danh bất hư truyền. Con nhỏ này học được Long-biên kiếm pháp của vua bà Bình-Dương, cũng may y thị không nặng tay, bằng không thì mình đã bỏ mạng rồi. Thôi thì mình đành nín nhịn cho qua việc hôm nay, bằng không chỉ uổng mạng vô ích.



Nghĩ vậy y đứng im. Công chúa Thiên-Thành tiếp:



– Ðấy, chắc chỉ vì Thái-tử nghe lời của bọn này, nên mới đi vào tử lộ mà không biết.



Triệu Thự nói cứng:



– Tiêu tướng quân luận đúng chứ đâu có sai?



– Trời ơi! Thái-tử chỉ nhìn về quá khứ mà xem? Có phải khi Chiêu-Huệ thái hậu sắp băng hà, đã gọi Thái-tổ tới bên dường trối trăn rằng: nhà Chu mất ngôi về Tống, vì họ truyền ngôi cho ấu quân đó sao? Nếu Chu thái tông Sài Vinh truyền ngôi cho em trai, là người đã trưởng thành, thì liệu Thái-tổ có lấy được ngôi vua không? Vì vậy Thái-hậu dặn Thái-tổ phải truyền ngôi cho em là vua Thái-tông (6). Khi Thái-tổ băng hà để di chiếu lập em là vua Thái-tông lên thay, dặn rằng sau này vua Thái-tông phải nhường ngôi cho Ngụy-vương Ðình-Mỹ là em thứ ba đó ư? Ngụy-vương Ðình-Mỹ văn võ kiêm toàn, vào sinh ra tử có thừa, có đại công lập lên triều Tống. Ông lại được di chiếu của Ðỗ thái hậu, Thái-tổ, thế mà chỉ vì bọn hủ nho luận bàn phân vân, rồi bị vua Thái-tông truất phế để lập con trưởng là Hán-vương lên thay đó sao? (7) Hán-vương tài năng quán chúng, được vua Thái-tông yêu thương cùng cực, rồi cũng chỉ vì miệng thế dèm pha, mà bị truất, bị đầy, do vậy em ngài là Chiêu-Thành thái tử được lập lên.(8) Thế rồi Chiêu-Thành thái-tử lại bị giết, (9) vua Chân-tông mới được kế vị. Bây giờ Thái-tử thử nói thực xem: tài, đức, đại công, Thái-tử có bằng Ngụy-vương Ðình-Mỹ, Hán-vương Nguyên-Tá, Chiêu-Thành thái-tử Nguyên-Hy không? Lòng yêu thương của Gia-Hựu hoàng đế đối với Thái-tử có bằng vua Thái-tông đối với ba vị bị truất kia không?



Ghi chú,



(6) TS 242, trang 8605, Thái-tổ mẫu Chiêu-huệ thái hậu Ðỗ thị truyện.



(7) TS quyển 244, trang 8666, Ngụy-vương Ðình-Mỹ truyện.



(8) TS 245, trang 8693, Hán-vương Nguyên-Tá truyện.



(9) TS quyển 285, 8697, Chiêu-thành thái tử Nguyên-Hy truyện.



– Cô gia thực không bằng.



– À, Thái-tử công nhận điều đó, vậy Thái-tử cũng nên biết rằng: xa mặt khuất lòng, miệng lưỡi khó tránh. Ðến ba vị kia tài đức công lao là thế mà còn bị truất; huống hồ Thái-tử đang ngồi trên cái ghế hai chân, chông chênh như trứng chồng. Thế mà Thái-tử không lo ở Biện-kinh, ngày đêm chầu chực Gia-Hựu hoàng-đế cùng Hoàng-hậu, để giữ địa vị, giữ thân, mà lại bỏ đi ra ngoài thế này; có phải là vô mưu, bất trí không?



Thấy Triệu Thự im lặng, Công-chúa tiếp:



– Kể đâu xa, ngay trong nhà, Thái-tử có đến hai mươi mốt anh em trai. Trên Thái-tử có mười hai anh trai cũng đang rình rập cái ngôi của Thái-tử. Có thể nói, Thái-tử bị hàng trăm mũi dùi chĩa vào người, mà Thái-tử không biết nguy cơ còn bỏ đi xa. Nếu việc bỏ đi xa, mưu đồ thành tựu thì Thái-tử cũng không thêm chút uy tín nào. Còn như lỡ ra dọc đường, nào võ lâm người Hoa, người Việt, cùng bọn vô lại ; ai cũng có thể hại Thái-tử được. Ðó là một điều chết uổng; hoặc giả khi Thái-tử vắng nhà, miệng thế dèm pha, thì ai là người biện minh cho Thái-tử? Ðó là hai điều chết uổng. Thái tử ơi! Tục ngữ Trung-nguyên có câu: bước vào bếp, là thấy bẩy thứ là mắm, muối, tiêu, hành, tỏi, ớt, dấm. Chuyện Thái-tử Nam du, đã không chính đáng, người ta đang vu cáo rằng Thái-tử sang Ðại-Việt để cầu giúp đỡ, hầu chống kẻ thù. Rồi người ta thêm thắt mắm, muối, tiêu, hành, tỏi ớt... vào mới khổ. Cho nên tôi mới nói rằng Thái-tử sắp quy tiên là thế.