Năm Tháng Tĩnh Lặng, Kiếp Này Bình Yên

Chương 18 : Sóng nước trong mộng

Ngày đăng: 08:45 19/04/20


Mỗi người đều có một

vùng sông nước trong mộng, vùng sông nước này chính là Giang Nam. Có lẽ

Giang Nam níu giữ bạn chỉ bằng một ngọn sóng, một mảnh hồi ức, một gốc

cây cảnh. Nhưng sự hiện diện của bạn, đều là vì mốt duyên tình không dứt từ kiếp trước. Không quên nổi con thuyền nhỏ mui đen đó, không quên nổi ngày hôm qua xuân sắc khắp thành vào thời Tống đó. Đây là nơi hễ bạn đã bước vào thì không gì chia cắt nổi, khiến bạn từ một người khách qua

đường biến thành một người quay trở về. Đã nói, nhất định phải gom góp

một quãng thời gian của vùng sông, nước trong một quán trà cũ kỹ, lặng

lẽ chờ đợi, không gặp không về.



Ký ức sông nước



Người ta

nói sông nước Thiệu Hưng là một dòng sông, bạn đứng ở bên bờ đá xanh,

muốn qua sông, chỉ có cách ngồi lên thuyền nhỏ mui đen mới có thể đi

qua. Bất cứ phương thức nào khác đều không thể thực sự đưa bạn vào giấc

mộng sông nước. Dòng sông mang đậm phong cách cổ xưa của Giang Nam, sẽ

thanh lọc sạch sẽ cõi lòng đầy mây khói phù hoa của bạn, gạt bỏ mọi bối

rối của khách qua đường là bạn, mang đến cho bạn hơi ấm của người trở

về. Lội nước mà đi, trong sương khói mờ mịt bao trùm sông nước, phong

cảnh hai bên bờ sẽ làm ướt đẫm áo khăn của bạn, mà sau đó, lại từ từ

thẩm thấu vào tận sâu thẳm linh hồn bạn.



Mái chèo khua qua ký ức

cổ xưa của Thiệu Hưng, những sóng nước nhẹ nhàng lan tỏa sẽ trùng phùng

gợi mở những sự tình mà bạn đã quên lãng hay đóng kín. Những khoảnh khắc từng khắc sâu tâm khảm vốn đã nhạt nhòa, mà giờ đây, từng chi tiết mơ

hồ lại trở nên sống động, sắc nét. Phong cảnh cổ kính khóa kín mọi nét

hoa lệ của thế gian, khiến bạn có thể thưởng ngoạn mây trôi gió vờn ngay từ những dấu tích đã xanh rêu. Ở vùng sông nước không có điêu khắc,

không thấy trang hoàng, và đâu đâu cũng là nên thơ tự nhiên này, rất

nhiều cuộc đời tối tăm, trong một sát na, đã trở thành linh hồn sống

động.



Men theo những cảnh trí thơ mộng, thanh tân, linh khí từ xa đến gần tựa như một cơn gió nhẹ ùa đến, lịch sử từ cổ đến kim cũng như

một cuốn cổ thư từ từ mở ra. Vô vàn nhân vật, sự tình của vùng sông nước chưa từng được thống kê một cách tỉ mỉ, đã lọt vào giữa năm tháng cuồn

cuộn như nước trào, bởi vì chỉ có đi xuyên qua thời gian mưa khói hàng

ngàn năm, mới có thể thực sự nắm bắt được những câu chuyện chìm sâu

trong dòng nước Thiệu Hưng.



Những thứ đã xa nay quay trở lại,

lịch sử như một tấm gương đồng han gỉ, treo trước song cửa sổ vùng sông

nước, trong những ngày tháng sắc nhọn, để lộ ra chiếc bóng tang thương

của mình. Vua Đại Vũ đã từng trị thủy cứu dân đen nơi đây, Việt Vương

Câu Tiễn đã từng nếm mật nằm gai trên mảnh đất này để giành lại thiên

hạ. Ai đã có mối tình bi thương không lời ở vườn Thẩm đó, còn có chuyến

du hành hoài niệm chuyện cũ người xưa như văn hào Lỗ Tấn? Thậm chí, khi

bạn hít thở, mùi thơm của mực trong bức “Lan đình tập sự” của Vương Hy

Chi còn làm bạn nghẹt thở đến mức không dám thả trôi dòng suy tưởng, thứ mực nước nghìn năm ấy đã tẩy nhãn tịnh tâm cho bạn, lọc tẩy hết thảy

những nóng vội của con người, chỉ giữ lại một khoảng trời trong vắt.



Là một người có tâm trí trong sáng, bạn có thể du ngoạn trong không gian

đơn sơ phóng khoáng của lịch sử, mơ mộng trong phong cảnh tú lệ của sông nước, không cần lo lắng bị thế sự phồn tạp ngăn cản, không cần tính

toán những tình cảm chua xót vây cuốn. Bạn nhắm mắt lại, cảm nhận vẻ đẹp đắm say của sông nước, bạn mở mắt ra, ngọn gió xuân dịu dàng ấy đã lặn

sâu trong linh hồn bạn, nói với bạn rằng, phút giây này, cuộc sống thật

mới mẻ và chân thực xiết bao.



Chiếc thuyền mui đen nho nhỏ chảy

xuôi theo dòng, ngước mắt lên rồi dựa cửa sổ để ngắm nhìn Giang Nam tươi đẹp, gặp gỡ trong phút giây đã đủ níu kéo tuổi xuân và mộng tưởng mà

gió bụi từng che lấp. Thời gian tựa như một lưỡi dao sắc lẹm, cắt đứt

tuổi hoa xanh biêng biếc, và cũng có thể cắt đứt ký ức sâu thẳm, giải

phóng những suy nghĩ bị giam cầm. Những câu chuyện cũ từng bị tuế nguyệt hong khô đã bắt đầu ướt đẫm, dưới ánh dương rực rỡ sáng lòa, chúng lại

mang hơi ấm của tháng ngày.




Thảng như bạn không muốn làm

một người cổ hủ, khi đến vườn Thẩm, không nhất thiết phải mang theo sắc

thái bi thương, không cần phải thở than đau đáu, cũng không cần phải cảm thấy trống trải chua xót. Bởi vì, nơi đây đã từng có cuộc ly biệt rõ

ràng sáng tỏ, cũng đã từng có những hồi ức tươi đẹp khôn xiết. Bất cứ

vương vấn vô cớ nào, đều là sự hốt hoảng không tên. Phong cảnh nơi này,

câu chuyện nơi này, sẽ không khiến ai vô tình bỏ lỡ, và cũng không vì ai cố ý dừng lại. Đi theo những dấu tích thưa thớt còn sót lại của câu

chuyện xưa, bước đi trong giấc mộng cũ của mưa gió vườn Thẩm, bạn có thể cảm động, nhưng không nên bi thương; bạn có thể say đắm, nhưng không

nên mơ hồ.



Vườn Thẩm năm đó kỳ thực đã bị chôn vùi trong gió bụi

thời gian, chính những người đời sau vì đi tìm giấc mộng, nên đã trùng

tu lại di tích lịch sử còn sót lại này, để người đời có thể nhìn thấy

được tình cảnh năm xưa từ những cảnh vật hiện thời mà mình có thể chạm

tay vào được. Không người nào so đo xem vườn Thẩm trước mắt có chân thực như xưa không, bởi vì bạn nhắm mắt lại là có thể ngửi thấy mùi hoa

thơm, nghe thấy tiếng mưa rơi, còn có cơn gió thoảng nhè nhẹ bước đi

trong vườn, hết thảy đều đang nói với bạn, là thật, chân thực như mộng

cảnh, và mộng cảnh cũng là chân thực.



Bước vào khu vườn vốn là

bối cảnh sáng tác đó, chỉ mấy chữ “bối cảnh sáng tác” đã khiến bạn quên

mất dòng tư duy ban nãy vẫn còn thật giả lẫn lộn kia. Đá Thái Hồ sừng

sững đứng riêng, bị tuế nguyệt mài sáng, khắc lên trên đó sắc màu của

tháng năm, nó dùng tư thế thơ mộng, kể với bạn rằng có một thi nhân tên

là Lục Du, đã từng ở nơi đây cô độc đợi chờ Đường Uyển. Đá Thái Hồ tang

thương chép lại quá vãng đã trôi qua, cho dù bị tháng năm đẽo gọt thành

trăm ngàn lỗ hổng, nhưng vẫn vì một câu chuyện cảm động, dõi nhìn từng

đôi mắt mịt mờ một cách đầy tình thơ ý họa như xưa.



Một làn hương mai thanh nhã bay qua non nước xa vời vợi của lịch sử, chậm rãi ùa tới. Vấn Mai Hạm là một tòa lâu đài thủy tạ mô phỏng phong cách Tống, vì thi nhân yêu hoa mai ấy mà hành lang phong cảnh của vườn Thẩm cũng tràn đầy dấu hương của loài hàn mai. Nếu như bạn đi theo hương hoa lúc mai đương nở, thì những đóa hoa chúm chím môi cười ấy sẽ trang nhã giao hòa với

bạn. Cho dù bạn đến vườn Thẩm vào những mùa khác, thì lòng bạn vẫn hướng về phong thái lạnh lùng cao ngạo dứt khoát của nàng. Một tiếng hỏi mai

dẫn dắt trăm ngàn tình ý, một giai nhân yểu điệu như hoa mai đã từng

nhàn tản dưới khung cửa sổ lạnh lẽo của bạn, đến nay, lại bị ai chia cắt nơi chân trời?



Lục Du nói: “Ngõ nhỏ thành nam lại vào xuân, chỉ

thấy hoa mai chẳng thấy người.” Tháng ngày xanh ngăn ngắt, sắc xuân tràn ngập trên đường, Lục Du một mình dựa vào lan can ngắm hết hoa thơm,

nhưng chẳng thấy dấu thơm bóng lẻ của Đường Uyển. Chỉ có hàn mai ngập

lối vườn xuân ấy, dùng phong cốt đoan trang tao nhã của nàng, mấy độ

hương thơm cách tuyệt tục thế, trên bờ xanh um của hồng trần, một mình

nhàn nhã thanh tịnh. Hồi tưởng chỉ là sự bối rối trống trải hiện thời,

dù cho có tài cao kinh thế, tấm lòng độ lượng, cũng chỉ có thể ở giữa

vườn Thẩm sắc xuân giăng mắc, âm thầm hỏi thăm quá vãng thơm hương của

một cây mai.



Đi trên cây cầu đá cổ kính mộc mạc trong vườn Thẩm

mới hay, tên cầu là “Thương Tâm”. Hoa hạnh mưa khói, dương liễu cầu đá,

vốn là những cảnh tượng dịu dàng nhất của Giang Nam, giờ đây, giữa cảnh

trí tự nhiên mới mẻ này, lại có thêm ít nhiều ký ức ẩm ướt. Khi tóc

trắng phơ phơ, Lục Du mới trở lại vườn Thẩm, đứng bên cạnh cầu, những

tình cảm đã đè nén nhiều năm không dám chạm vào nay lần nữa tuôn trào

như thác lũ, xối xả thành dòng, xoay qua chuyển lại trong sâu thẳm trái

tim. Ông thảm thiết ngâm rằng: “Thương Tâm kiều hạ xuân ba lục, tằng thị kinh hồng chiếu ảnh lai.” (Dưới cầu sóng biếc trông đứt ruột, Đây bóng

hồng soi thoảng lúc nào[5]) Chính là lúc Lục Du quay đầu nhìn lại chuyện cũ tình xưa, để lại mối thương lòng ngàn lời khó tả dưới cây cầu đá

vườn Thẩm. Trong mộng, chim hồng kinh sợ soi bóng, hồng nhan như xưa,

tỉnh lại vườn Thẩm đã mài sáng đôi mắt mờ đục, nàng đã biến mất trong

vầng sáng của trần thế.



[5] Trích trong bài Thẩm viên, kỳ nhất. Dịch thơ Khương Hữu Dụng.