Ngược Về Thời Minh

Chương 101 : Chiếu chỉ khám lăng

Ngày đăng: 13:21 30/04/20


Trên kim điện, Hoàng Đế Chính Đức ngồi trên ngai vàng mà lòng dạ rối bời. “Lúc này chắc hẳn ở đầu chợ đã khai đao xử chém rồi thì phải?” Nghĩ đến đây, Chính Đức không khỏi cảm thấy phiền não.



Tiểu hoàng đế còn nhỏ, chưa có nhiều tâm cơ đế vương cho lắm. Cho nên y chỉ phản ứng đơn thuần về mặt tình cảm: y không thể nào chấp nhận được sự phản bội của Dương Lăng. Vừa nghe Dương Lăng cũng tham dự vào chuyện che giấu tin xấu về lăng tẩm của phụ hoàng mà y rất kính trọng, Chính Đức hận không thể tự tay giết chết gã bầy tôi mà y hết lòng đối đãi chân thành này.



Nhưng dù hận, y vẫn nhớ khi mình còn làm Thái Tử, rồi làm Hoàng Thượng, y luôn là một kẻ cô đơn, mãi cho đến khi Dương Lăng xuất hiện. Trong ánh mắt hắn nhìn y không có sự sợ hãi và nịnh nọt mà y thường thấy trên gương mặt của những kẻ khác, mà là một sự quan tâm chân thành. Do đó y cũng luôn coi Dương Lăng như một người bạn.



Nhưng... người bạn duy nhất của y lại đã phản bội y. Nghĩ đến đây, Chính Đức không nén được tiếng thở dài.



Ngự sử Lục Trọng Côn thấy Hoàng Đế không nghiêm túc nghe lão phát biểu, bèn cất cao giọng gọi lớn:



- Hoàng Thượng!



- Hả? Cái gì?



Chính Đức ngây người một chốc, thu lại ánh mắt lơ đễnh, ngạc nhiên nhìn lão ngôn quan ngự sử đã ê a dài dòng nửa ngày mà y vẫn chưa biết lão muốn nói cái gì.



Lục Trọng Côn cố nén giận, bẩm:



- Giờ đang là đại tang của Tiên đế, giỗ đầu (1) chưa lâu, mới bắt đầu kỷ nguyên của Hoàng Thượng, mà người đã ham mê lạc thú, thỉnh thoảng lại đến dự tảo triều muộn, ngọ triều thì trễ đến xế chiều; sinh hoạt vô thường, ăn ngủ trái bữa, khiến cho tinh thần bị tổn hao, hại lỡ chính sự. Đó không phải là việc làm của minh quân đâu. Thần nghe đêm qua mưa lớn sấm vang, đánh vỡ mỏ diều hâu (*) của điện Phụng Thiên và con thú trên nóc Thái Miếu, cây cối trong thành bị gãy hơn trăm gốc. Hoàng Thượng nên lấy cái tai hoạ do trời gây ra ấy mà cảnh tỉnh.



(*: vật trang trí hai đầu nóc nhà kiểu Trung Quốc)



Chính Đức thờ ơ đáp:



- Biết rồi! Trẫm đã phái Khâm Thiên giám nghiệm tính cát hung.



Lục Trọng Côn cảm khái:



- Hoàng Thượng! Chiếu theo thông lệ của triều trước, hễ gặp thiên địa kịch biến, đế vương phải giảm bữa bớt vui, hạ chiếu tự ngẫm. Hoàng Thượng nên lệnh cho bá quan văn võ dâng tấu thảo luận khuyên ngăn, chỉ điểm tệ nạn đương thời mới phải.



Hoàng Đế Chính Đức thoáng nhướng mày, thầm nổi giận trong lòng: "Thật là quá vô lý! Mưa to gió lớn thổi ngã vài gốc cây, sấm sét đánh vỡ mấy con thú đá trên mái điện cũng muốn nói vòng nói vo để trút lên đầu trẫm. Cái gì mà đó không phải là việc làm của minh quân chứ! Chẳng lẽ ta là hôn quân sao?"



Nhưng đã là ngôn quan, nghĩa là có thể tấu mà không bị hạch tội; cho dù là cha y, vị hoàng đế Hoằng Trị mẫu mực ấy, cũng từng có lúc bị bọn ngự sử tấu đến chịu không nổi. Vì vậy Chính Đức đành nén giận, bảo:



- Vậy thì hạ chiếu, lệnh cho bá quan vào can gián đi!



Chính Đức ho một tiếng, nói tiếp:



- Các vị ái khanh! Hôm nay nghịch thần dối gạt chuyện Đế Lăng bị tươm nước đã bị giải đến pháp trường xử tử. Việc dời lăng của Tiên đế đã là chuyện bắt buộc. Có thể tháo dỡ một phần vật liệu từ chỗ cũ để xây dựng lại lăng mới, như thế ước tính hao tốn khoảng ba trăm vạn lượng. Trẫm muốn trưng thu thêm một chút thuế khóa, các vị ái khanh có kiến nghị gì để điều trần không?



"Quả nhiên là đến lúc rồi đây!" Ba vị đại học sỹ không khỏi đưa mắt nhìn nhau. Hôm qua sau khi Chính Đức rời khỏi ngọ triều, Từ Quán đã vào cung bẩm báo chuyện khâm phạm đã cung khai nhận tội. Trong cơn giận ngất trời, Hoành Đế Chính Đức đã hất đổ bàn ngự (ngự trác), la hét ỏm tỏi muốn lập tức nghiêm trị đám nghịch thần tặc tử này. Ba vị đại học sỹ biết tin liền biết rằng chuyện dời lăng của Tiên đế đã ngã ngũ. Nhưng phí tổn khổng lồ này sẽ lấy từ đâu ra?



Kẻ khác có thể không biết tường tận, nhưng bọn họ còn chẳng biết mấy năm nay vì thiên tai liên miên không ngớt, tài chính của Đại Minh đã túng quẫn đến mức nào ư? Còn bọn Vương Quỳnh, Từ Quán, Hồng Chung chỉ hô hào giữ gìn bảo vệ vận mệnh Đại Minh nhằm để cho địa vị lẫn quyền thế bọn chúng sẽ tăng thêm một bậc; còn những uy hiếp trực tiếp khác đến địa vị lẫn vương quyền, bọn họ chỉ xem là thứ yếu.



Không còn cách nào khác, Lý Đông Dương đành liều mạng bước ra khỏi hàng tâu:



- Hoàng thượng! Thu nhập hằng năm của triều đình là bốn trăm vạn lượng, vừa đủ chi tiêu. Lăng tẩm tiên đế đã dùng hết ba phần tư, bộ Hộ đã cạn kiệt tiền bạc gom góp bấy lâu. Nếu di dời Hoàng Lăng, tất phải gia tăng thuế khóa. Dân chúng sẽ không chịu nổi cái khổ đâu.



Chính Đức nghe thế cả giận gắt:



- Bách tích Đại Minh có ức vạn (trăm triệu) người, chỉ thu mỗi người thêm một phần thuế, khanh không cần phải buông lời doạ nạt như vậy!?



Lý Đông Dương vội bẩm:



- Hoàng Thượng bớt giận! Hoàng Thượng có điều không biết, những năm gần đây thiên tai liên tiếp, Hà Nam Hà Bắc bị lũ lụt gây họa, Cam Túc Thiểm Tây hạn hán không mưa, ngay cả ở Giang Nam giá gạo cũng đã rất đắt đỏ, khiến cho khắp nơi đạo tặc hoành hành. May vì Tiên đế nhân từ, lấy thuế thấp nuôi dân, yêu thương dân chúng, trăm họ mới có thể miễn cưỡng vượt qua khó khăn. Nhưng dân chúng ở những vùng đất nghèo khổ đã phải mỗi ngày chỉ một bữa sống lay lắt qua ngày, nếu tăng thêm thuế má, sợ rằng sẽ gây nên biến loạn.



Lý Đông Dương chỉ lo Chính Đức không nghe lời khuyên can, gấp đến độ toát cả mồ hôi. Nếu không phải vì thời đó Đại Minh còn chưa biết đến truyện ngụ ngôn "Cọng rơm cuối cùng làm gãy lưng con lạc đà", lão cũng sẽ bắt chước Tiêu Phương đi đường vòng khuyên nhủ rồi.



Tạ Thiên lập tức bước ra tâu:



- Hoàng Thượng! Hôm nay rợ Miêu không ngừng nổi loạn gây hại cho hậu phương. Thát Đát đang vì Tiên đế về trời mà đang lom lom nhìn ngó Đại Minh chúng ta như hổ đói. Trong nước tổn hao, lũ lụt hạn hán dồn dập, dự trữ biên phòng thiếu hụt, thật sự không thể gây thêm tai hoạ nữa đâu.
Từ Quán là người tố cáo vụ án Đế Lăng thấm nước, để tránh hiềm nghi, đương nhiên lão không thể xin đi khám nghiệm được. Lão sốt ruột, vội nói:



- Đã là như vậy, chuyện này càng phải nên cẩn thận. Theo lão thần thấy, Hoàng Thượng nên tuyển chọn những triều thần không hề có lợi ích và thiệt hại gì với vụ án này đi đến đó mới ổn thoả.



Tiêu Phương bèn hỏi:



- Vậy theo Từ thượng thư, chúng ta nên cử ai đi?



Từ Quán thoáng trầm ngâm rồi bảo:



- Không bằng như vầy: Chọn một vị huân thích (hoàng thân quốc thích có công lao), một vị triều thần, một vị Hàn Lâm. Ba người cùng đi, lấy đất về đối chiếu với đất Kim Tỉnh mà bộ Lễ đã niêm phong cất giữ, có nhầm lẫn hay không liếc mắt sẽ thấy ngay. Ba bên kiềm chế giám sát lẫn nhau, cũng hết sức công bằng.



Lão tin chắc rằng Kim Tỉnh đã bị người động tay động chân, cho nên không chút lo sợ. Trong ba người được đề cử, một người là bầy tôi trong triều, một người là huân thích chỉ có công danh lợi lộc mà không hề có thực quyền, một người là quan dự khuyết, chưa từng can dự triều chính, nên đương nhiên là thoả đáng nhất.



Dương Phương nghe vậy cười nói:



- Đã như vậy, thần xin đề cử Thành quốc công Chu Cương. Quốc công tuổi cao đức trọng, công chánh vô tư, đã là huân khanh, lại là quốc thích, có thể nói là nhân tuyển thích hợp nhất.



Hoàng Đế Hiến Tông từng nạp con gái của Thành quốc công làm phi, cho nên Dương Phương mới nói như vậy.



Tiêu Phương rất có hảo cảm với Dương Lăng, mà kẻ muốn "hạ" Dương Lăng lại là Vương Quỳnh, tử thù của lão, nên hiển nhiên lão rất muốn bênh vực Dương Lăng. Có điều Tiêu Phương không dám mạo hiểm tiến cử chính bản thân. Lão chợt nhớ khi Dương Lăng chờ xét xử tội kháng chỉ, từng có một sỹ tử thi Hội viết một bài văn chương gấm vóc lên tiếng ủng hộ y. Đại thần trong triều biết chuyện này không nhiều, nhưng Tiêu Phương thích nhất là sưu tập những bài kỳ văn chốn phường chợ, nên lại biết rất rõ việc này. Tiêu Phương thầm nghĩ: "Sỹ tử này chắc hẳn là có chút giao tình với Dương Lăng. Nay hắn đã được vào Hàn Lâm Viện, tuy chưa chắc hắn sẽ chịu xả thân vì Dương Lăng, nhưng đến lúc xét nghiệm Kim Tỉnh ở Đế Lăng, chỉ cần hắn có thể tiện tay làm qua loa, nhất định sẽ tạo thuận lợi cho Dương Lăng.”



Nghĩ vậy Tiêu Phương vội tâu:



- Thần xin tiến cử Nghiêm Tung. Người này là tân khoa tiến sỹ năm nay, đã trúng tuyển làm Thứ cát sỹ Hàn Lâm Viện. Người này tài văn xuất chúng, lại đỗ đạt tiến sỹ tân khoa, chưa từng bước chân vào triều đình, có thể làm Khâm sai.



Chính Đức gật đầu nói:



- Được, vậy là hai người này đã được xác định. Còn trong các triều thần sẽ cử ai đi đây?



Mọi người đưa mắt nhìn nhau, nhất thời không ai dám lên tiếng. Sau khi tân đế đăng cơ, vụ án này đã trở thành võ đài để Lục Bộ thậm chí là Tam Công phân phối lại quyền lực và đấu đá lẫn nhau. Chỉ cần nhúng tay vào nhất định sẽ đắc tội với một bên, ai dám tùy tiện trả lời chứ?



Chính Đức thấy không ai lên tiếng, bèn nhìn vào từng người một. Bộ Lễ, Bộ Công, Bộ Hình, mấy nha môn này đều có liên quan đến vụ án, không dùng được. Chính Đức lắc đầu. Đột nhiên y nhìn thấy Thị lang bộ Binh Trần Hồng Mạc, bèn mừng rỡ nói:



- Bộ Binh không hề có liên can đến vụ án này, đại thần trong triều hãy do Trần khanh đại diện vậy.



Trần Hồng Mạc vừa nghe liền giật thót mình, lão nào có thể nhận nhiệm vụ làm kẻ đắc tội người ta này chứ. Lão cuống quýt thoái thác:



- Thần tạ ơn Hoàng Thượng tin cậy! Nhưng thần không dám giấu, tiến sỹ Khâm Thiên giám Hoa Phó là thân nhân của vi thần, mà vụ án này lại liên quan đến Khâm Thiên giám, thần nên lánh đi để tránh hiềm nghi mới phải.



Lão thấy Chính Đức lộ vẻ không vui, vội vàng nói thêm:



- Tuy nhiên vi thần xin tiến cử một người. Người này cũng là quan viên bộ Binh, thường ngày rất là cẩn trọng, hơn nữa hoàn toàn không có liên can gì đến vụ án này. Chỉ là quan chức hơi thấp kém một chút.



Chính Đức sốt ruột gắt:



- Trẫm muốn phái người đi, chỉ là muốn tìm vài người không liên can đến vụ án này để giúp trẫm kiểm tra rõ ràng mà thôi. Quan chức lớn hay nhỏ chẳng sao, người khanh nói là ai?



Trần Hồng Mạc vội đáp:



- Chủ sự bộ Binh Vương Thủ Nhân. Người này xưa nay có tiếng là người hiền, có thể đảm nhận trọng trách!



Chú thích:



(1) Nguyên văn “tiểu tường”: giỗ đầu.



Thời cổ, sau khi Hoàng đế, Hoàng thái hậu, Hoàng hậu mất 12 ngày thì cúng tiểu tường. 



Từ thời Hán Văn Đế, để giảm nhẹ tang kỳ, triều đình sử dụng một ngày thay cho một năm, nên sau 12 ngày xem như đã đủ năm, sẽ cúng tiểu tường; sau 24 hoặc 25 ngày thì cúng đại tường, giải tang cho quan lại.