Ngược Về Thời Minh

Chương 14 : Luận bàn về chữ trinh

Ngày đăng: 13:20 30/04/20


Hàn huyên một lúc xong, Mã dịch thừa mời mọi người ngồi, tiểu nhị bắt đầu bê từng món đã được gọi lên. Mã dịch thừa quay sang nói với Dương Lăng:



- Dương tú tài, lão phu cũng lớn tuổi rồi, xin gọi ngươi một tiếng hiền điệt. Đứa con này của ta tính tình thô bạo, ngày thường hay gây rắc rối cho lão phu. Lần này gây ra họa lớn, nếu không nhờ diệu kế của Dương hiền điệt, lại được Mẫn đại nhân khai ân, khuyển tử đã phải mang tội giết người rồi.



Dương Lăng vội đáp:



- Đâu có, đâu có! Hôm ấy tiểu điệt nhìn thấy rõ Mã huynh thật sự chưa hề động tay chân với Vương lão bản. Có thể nói là do lòng tham hại người thôi. Vương lão bản kia vì tham trân châu của Mã tiểu thư, bị phát hiện ra rồi tranh cãi một hồi nên thẹn quá hoá giận, nộ khí công tâm mà chết. Đó thực không phải là lỗi ở Mã huynh, xin Mã đại nhân ngàn vạn lần chớ có khiển trách Mã huynh nhiều quá.



Mã Ngang lập tức lên tiếng:



- Cha thấy chưa, con và muội muội nói mà cha không tin. Dương huynh đệ nói vậy cha đã có thể tin rồi chứ? Con không có đánh cái lão già đó.



- Câm miệng! Tiểu súc sinh! Ở đâu có phần cho ngươi nói chen vào!



Mã dịch thừa mắng con xong liền quay về phía Mẫn huyện lệnh, Hoàng huyện thừa và Dương Lăng, lắc đầu nói:



- Xem đó, tiểu súc sinh này được việc thì ít hỏng việc thì nhiều. Đâu có so được với Dương hiền điệt tuy còn thua con ta mấy tuổi nhưng hiểu rõ sự đời, chưa đến hai mươi mà công danh đã có. Ôi, vợ ta mất sớm, một nam một nữ chúng nó thiếu người dạy dỗ nên mới không hiểu việc thế này đây.



Mẫn huyện lệnh, Hoàng huyện thừa và Dương Lăng nghe thế lại phải nói giúp thêm Mã Ngang. Cùng lúc ấy tiểu nhị bắt đầu bày các món ra. Một lát sau, người trong rạp hát càng lúc càng đông. Xung quanh nhã phòng là mấy thương nhân hiện đang nghỉ tạm ở dịch trạm, xa hơn chút nữa là mấy dịch sứ, dân phu và đám nha dịch vô công rồi nghề chạy đến xem để giết thời gian.



Bất chợt sân khấu phía trước bừng sáng, một hồi chiêng trống vang lên và mấy diễn viên bắt đầu bước ra biểu diễn. Thời ấy còn chưa có kịch nói, Dương Lăng lại không rành về tuồng mà không tiện hỏi người khác nên nghe không hiểu được bao nhiêu. Toàn bộ diễn viên tuồng thời đó đều là nam, muốn xem mỹ nữ cũng chẳng được. Dương Lăng cảm thấy rất chán, ngồi nghe Mẫn huyện lệnh, Mã dịch thừa và Hoàng huyện thừa vừa xem vừa đàm luận mới đại khái hiểu ra một chút.



Nghe hai người bọn họ từ ngữ qua lại kể về tình tiết câu chuyện, Dương Lăng thấy hết sức khó tin. Vở tuồng này kể về một người con gái vừa mới kết hôn không lâu thì trượng phu đã rời khỏi nhà đi xa. Mấy năm sau người chồng trở về quê hương. Trên đường về nhà, hắn gặp một cô gái vô cùng xinh đẹp đang hái lá dâu. Bị vẻ đẹp của cô gái đó lay động, hắn bèn bước đến trêu ghẹo. Chẳng ngờ lại bị nghiêm khắc cự tuyệt nên hắn đành bẽ mặt ôm lòng chán chường về nhà. Ai ngờ về đến nhà lại thấy vợ mình chính là người con gái mà hắn vừa mới trêu ghẹo không được. Hắn cảm thấy vô cùng hổ thẹn, tự đáy lòng cũng nảy sinh sự ngưỡng mộ đối với vợ mình.



Truyện đến đây cũng không có gì là bất ổn. Nhưng sân khấu diễn tiếp đến ngày thứ hai, người vợ đó ở trong nhà khóc lóc sướt mướt rồi viết lại một phong di thư và thắt cổ tự vẫn. Trong thư nàng viết vì không giữ trọn đạo làm vợ, gợi lên tà niệm nơi nam nhân, khiến cho trinh tiết bản thân bị ô uế, cho nên nàng không thể tiếp tục sống trên nhân thế, chỉ đành lấy cái chết để bảo toàn trinh tiết. Sự việc đó cuối cùng làm náo động cả thôn làng. Khắp nơi dâng thư, Hoàng đế ban xuống thánh chỉ truy phong nàng liệt nữ này làm Nhất phẩm Cáo Mệnh Phu Nhân và cho lập “Trinh Khiết bài phường“ (cổng chào Trinh tiết), thật vẻ vang vô cùng. Trượng phu của nàng vì để tưởng nhớ, về sau khi cưới phu nhân mới, họ vẫn cùng nhau lên mộ để bái tế.



Hồng Nhạn lâu là một nơi kết hợp giữa rạp hát và tửu điếm, vì vậy một vở tuồng không phải được diễn liên tục cho đến hết, mà còn có giờ nghỉ giữa buổi. Lúc giải lao, hai người Mẫn, Mã bắt đầu sôi nổi đàm luận. Hoàng huyện thừa nhấp rượu, thi thoảng chêm vào vài câu. Tuy lão không nói nhiều nhưng dẫu gì cũng là một kẻ đọc sách nên có thể giảng giải một cách trôi chảy những lời Mẫn huyện lệnh muốn nói nhưng không diễn đạt được.



Dương Lăng lại cảm thấy vở kịch này rất không thực tế, tựa như một câu chuyện hoang đường nhất mà hắn đã từng nghe qua. Câu chuyện ấy kể về một triều nọ có một phụ nữ bị rớt xuống nước, được một nam nhân đi đường trông thấy nắm lấy tay nàng ta kéo lên. Không ngờ nàng ta trở về nhà lấy dao chặt đứt cánh tay của mình, chỉ bởi vì chỗ đó đã bị một người nam nhân không phải trượng phu của mình chạm vào.



Như vậy cũng có thể tính là "thất trinh" đi, vì suy cho cùng đó là thất trinh về thể xác. Nhưng người phụ nữ ở trong vở kịch này không ngờ lại không chịu nổi "thất trinh" về tinh thần. Chưa nói nó vốn không phải là thất trinh, chẳng qua vì nàng ta quá xinh đẹp, khiến cho người ta nhìn vào mà nổi sắc tâm. Người nam nhân đó đã không có tội, mà trái lại người vợ này lại tự cảm thấy chưa tròn phụ đạo làm vợ. Quả thực là hoang đường!



Nghe Mẫn huyện lệnh và Mã dịch thừa luôn miệng tấm tắc, Dương Lăng cuối cùng cũng chịu hết nổi, đành hỏi:



- Hai vị đại nhân, vở tuồng này không khỏi hơi quá khoa trương và không thực tế thì phải? Trượng phu nàng ta là kẻ tồi tệ, đi đường trông thấy mỹ nhân liền buông lời chòng nghẹo, bị mắng phải bỏ đi. Nhưng rốt cuộc người vợ lại cảm thấy tự mình bất trinh, điều đó... điều đó quả thật là vô lý! Trên đời làm gì có chuyện như vậy? Chuyện buồn cười như thế, vở tuồng lại khoa trương lên thì có gì hay ho đâu chứ?



Mã dịch thừa kinh ngạc hỏi:



- Sao? Dương hiền điệt đọc sách thánh hiền vậy mà lại không biết sự tích trong Liệt Nữ truyện hay sao? Tích truyện này có gì mà không thật chứ? Nữ tử đó tiết liệt như vậy, thật đúng là tấm gương cho các nữ tử khác trong thiên hạ, làm gì có chỗ nào đáng cười?



Mẫn đại nhân cũng mỉm cười nhấp một ngụm rượu rồi cười ha hả nói:



- Dương tú tài nhất định chỉ đọc mấy sách thánh hiền để thi đỗ công danh, cho nên không biết mấy tích truyện trong "Liệt Nữ truyện". Ngươi mềm lòng tốt bụng cũng phải, ta cũng cảm thấy có chút đáng tiếc cho nữ tử này. Nếu ta mà là quan huyện ở đó, nhất định sẽ phạt đánh tên trượng phu kia bốn mươi gậy to, phạt hắn cả đời không được nạp thiếp. Có điều chuyện này cũng không có gì là không thật cả. Vào năm Thành Hoá (Niên hiệu của vua Hiến Tông nhà Minh (1447-1487) - ND), khi ta vẫn còn là một tiểu binh ở Phúc Kiến đánh hải khấu, phía nam Mân Nam có một phu nhân, sau khi trượng phu mất đi thì muốn tuẫn tiết theo chồng. Họ hàng thân thích lấy đó làm vẻ vang, khua chiêng đánh trống tung hô ầm ĩ. Sau ba ngày, người phu nhân đó tay cầm hoa tươi, ăn mặc đẹp đẽ, ngồi ngay ngắn trong kiệu đến trước phần mộ trượng phu. Sau đó bà bước lên dàn treo đã được dựng sẵn từ trước rồi thắt cổ tự tử. Cảnh Thái đế (Niên hiệu của vua Đại Tông thời Minh (1428 – 1457) - ND) đã ban chỉ tặng thưởng lập Trinh Khiết bài phường, cả tỉnh được thơm lây. Khà khà, cái đền thờ đó chính là do bọn ta đã xây nên cho bà ta (Ở đây có thể tác giả nhầm lẫn về thời gian của hai vị hoàng đế Đại Tông và Hiến Tông - ND.)



Mã dịch thừa gật gù bảo:



- Đúng thế, lễ giáo sao có thể xem nhẹ được? Dương hiền điệt đã quá mềm yếu rồi. Những nữ tử như vậy đều là liệt nữ con nhà gia giáo, nếu mà là những nữ tử hoang đàng sao có thể tiết liệt như vậy được! Nhớ khi trước danh kỹ Từ Châu Quan Phán Phán (1) được thủ soái Trương Âm (2) nạp làm thiếp. Sau khi Trương Âm chết đi, ả đã không tuẫn tiết theo chồng, mà lại quay về Yến Tử lâu cũ của mình sống cô độc mười năm, vọng tưởng sẽ lấy được mỹ danh thủ tiết, thật đúng là mặt trơ mày tráo. Về sau Giang Châu Tư Mã (3) viết một bài thơ vạch trần bộ mặt giả dối của ả, ả mới hổ thẹn tuyệt thực mười ngày mà chết (4). So với vị nữ tử trong vở tuồng này và vị thiếu phụ ở Mân Nam đó thật đúng là một trời một vực.



Ở kiếp trước Dương Lăng rất hay luyện chữ và quan sát mấy bảng chữ mẫu, cho nên biết Giang Châu Tư Mã này là ai. Có điều hắn không hiểu Bạch Cư Dị này tại sao đối với một ông lão bán than thì tỏ lòng thương hại, nhưng đối với một quả phụ ở góa thì lại có thái độ như vậy. Mà khi đó vẫn còn là triều Đường, triều đại có nếp sống cởi mở nhất Trung Quốc. Giờ đã trải qua triều Tống, triều đại xuất hiện “Tam tòng tứ đức” của lão phu tử họ Chu (5), khó trách nữ nhân bị đầu độc nặng đến như vậy.



Ngồi nghe ở một bên, Mã Liên Nhi rất lấy làm bất bình, không nhịn được bèn hừm một tiếng rồi chen vào nói:



- "Thập tái xuân đề biến oanh thiệt, tam hiềm lão sửu hoán nga mi.“ Nếu đó là ái thê chết theo trượng phu thì cũng không phải là không nên. Nhưng đã là hàng hóa để loại nam nhân này đem về làm thiếp, có thể trao đổi mua bán tùy ý thì rõ ràng là không tình nghĩa gì. Vậy mà còn muốn người ta tuẫn tiết đi theo, con làm nữ nhi cũng cảm thấy có phần quá đáng đó.
Trách chẳng cùng theo xuống dạ đài



Rồi nàng nhịn ăn uống, mười ngày sau thì chết.



(5) Chu Hy (朱熹, 1130-1200) là một nhà tư tưởng nổi tiếng nhất đời Tống. Sự tổng hợp tư tưởng Khổng giáo với Phật giáo và Đạo giáo (道教) của ông cùng với các tư tưởng khác đã trở thành hệ tư tưởng chính thức của triều đình từ cuối thời nhà Tống tới cuối thế kỷ 19. Vì được kết hợp với khoa cử (科舉), triết lý Chu Hy liên quan tới tín điều chính thức cứng nhắc, bắt buộc sự tuân phục mù quáng từ một phía của dân chúng đối với nhà cai trị, con với cha, vợ với chồng, em với anh. Hậu quả làm kìm hãm sự phát triển xã hội của nước Trung Hoa tiền hiện đại, dẫn tới sự phát triển chậm chạp của nhiều thế hệ chính trị xã hội và sự ổn định tư tưởng dẫn tới sự trì trệ văn hoá cho tới tận thế kỷ 19. Học thuyết lý học Khổng giáo mới cũng đóng vai trò quyết định trong đời sống trí thức tại Triều Tiên, Việt Nam, và Nhật Bản. (ND sưu tầm)



(6) Lưu An là một nhân vật trong Tam Quốc Diễn Nghĩa. Truyện kể lúc Tiểu Bái bị Lữ Bố chiếm cứ, Lưu An đã thu nhận và giúp đỡ Lưu Bị đang lánh nạn. Vì trong nhà không có gì ăn nên đã giết vợ làm thức ăn cho Lưu Bị.



(7) Hai câu thơ nổi tiếng này được trích trong bài “Tiết phụ ngâm”, được viết bởi Trương Tịch, hàm ý cự tuyệt yêu cầu kết thông của tư đồ Lý Đạo Sư, về sau thường được nhiều người trích dẫn nhằm từ chối mối thâm tình của một người dành cho mình. Bài thơ như sau:



Quân tri thiếp hữu phu,



Tặng thiếp song minh châu



Cảm quân triền miên ý



Hệ tại hồng la nhu.



Thiếp gia cao lâu liên uyển khởi,



Lương nhân chấp kích Minh - Quang lý



Tri quân dụng tâm như nhật nguyệt;



Sự phu thệ nghĩ đồng sinh tử.



Hoàn quân minh châu song lệ thùy,



Hận bất tương phùng vị giá thì.



Bản dịch của Ngô Tất Tố:



Chàng hay em có chồng rồi



Yêu em chàng tặng một đôi ngọc lành



Vấn vương những mối cảm tình



Em đeo trong áo lót mình màu sen



Nhà em vườn ngự kề bên



Chồng em chấp kích trong đền Minh – Quang



Như gương, vâng biết lòng chàng



Thờ chồng quyết chẳng phụ phàng nghĩa xưa



Trả ngọc chàng, lệ như mưa



Giận không gặp gỡ khi chưa có chồng.