Ngược Về Thời Minh

Chương 189 : Vua lên biên ải

Ngày đăng: 13:23 30/04/20


Đội nghi trượng của Khâm sai chậm rãi đi về phía dịch quán, dân chúng trong thành đã quen với các đội quân lớn nên chẳng để tâm lắm tới đám chỉ hơn hai trăm quan binh này, vẫn tiếp tục bận rộn cùng hưởng thụ cuộc sống của bản thân.



Yêu cầu của những người dân sống tại tầng đáy của xã hội không hề cao, chỉ cần giặc Thát tránh xa đi một chút, gió nhẹ đi một chút, ánh mặt trời ấm áp hơn một chút, đó đã là những chuyện đáng để bọn họ cảm thấy may mắn và vui mừng rồi.



Tại Đại Đồng có hơn trăm ngôi chùa chiền, am ni cô hay đạo quán, có thể thấy khắp nơi trong thành là tòa viện liền kề, am miếu san sát, hương khói vờn quanh, tiếng tụng kinh vang lên không ngớt, khiến nơi sát phạt này vẫn là một thắng địa của Phật giáo.



Theo lệ thường, khoảng đất trống phía trước các chùa chiền, đạo quán là nơi tập trung của các quầy hàng. Bởi vì Đại Đồng là con đường huyết mạch từ Mông Cổ thông đến Tấn Ký Lỗ Dự (Tên gọi tắt của 4 tỉnh Sơn Tây, Hà Bắc, Sơn Đông và Hà Nam – ND), nên tuy hai bên chém giết không ngừng nhưng phần lớn chủng loại hàng hóa được bày bán trong chợ vẫn là da lông, thuốc men, vật dụng cho ngựa của người Mông Cổ.



Trong chợ cũng có rất nhiều người Mông Cổ nhưng không người Hán nào có thái độ thù địch với bọn họ. Hai bên ở gần nhau như thế, có rất nhiều người Mông Cổ không thể sống tiếp ở quê mình nữa đã lén chạy tới địa phận của người Hán làm nhân công lao dịch, buôn bán. Một số gia đình người Hán giàu sang còn có thêm một nhóm võ sỹ Mông Cổ vừa trung thành vừa dũng mãnh. Những người này đã nhiều năm sinh sống ở đây, tình cảm đối với người Hán còn sâu sắc hơn đối với bộ tộc mình.



Hơn nữa thời đó còn chưa có phương thức truyền tin nhanh nên căn bản gian tế chẳng có bao nhiêu tác dụng. Dù thật sự nghe ngóng được tin tức tình báo nào đó thì đợi đến khi gửi được về đến nơi thì cũng sớm đã mất đi tác dụng rồi, còn kém xa một trinh sát được phái đi trên chiến trường. Do đó nha môn Tuần phủ cũng không trông chừng bọn họ quá chặt, chỉ cần có người bảo lãnh, trên người không mang theo vũ khí thì quyền tự do nhân thân của bọn họ cũng chẳng khác gì của người Hán cả.



Phía trước một ngôi chùa đang có một gánh hát đang biểu diễn, tại ngã tư phía trước lại có một đội xe ngựa rất dài đang vận chuyển lương thảo. Hoàng đế Chính Đức đang ở trong quân, Dương Lăng không dám đi thẳng tới sợ trong lúc hỗn loạn có kẻ thừa cơ hành thích Hoàng đế, nên y bèn hạ lệnh cho toàn quân dừng lại nghỉ ngơi tại chỗ.



Thời đó hí khúc đã dần hình thành phong cách riêng biệt của từng vùng, nhưng loại gánh hát nhỏ ở địa phương thế này tất nhiên chỉ hát mấy bài dân ca vùng quê, hơn nữa phần lớn còn chứa những lời thô tục.



Năm Hồng Vũ thứ 22, Chu Nguyên Chương từng đích thân hạ lệnh phàm tướng sỹ nào trong quân mà học những lời hát dâm ô sẽ bị cắt lưỡi; đáng tiếc có một số chuyện dù là Hoàng đế hạ lệnh cũng vô dụng. Những năm trở lại đây, nếp sống dân gian ngược lại còn càng ngày càng cởi mở hơn. Chính Đức ngồi trên lưng ngựa, cùng một đám thị vệ ngoảnh đầu nhìn về phía gánh hát, xem với vẻ rất hứng thú.



Câu chuyện kể về một vị Tiết độ sứ thời Đường, trong tay có tới mấy chục vạn quân, nhưng lại sợ vợ như sợ cọp, ngay một người thiếp cũng không dám nạp. Về sau khó khăn lắm ông ta mới dụ dỗ được một tiểu nha hoàn xinh đẹp, nhưng vì quá sợ vợ nên mãi chẳng dám bước nốt bước cuối cùng. Vị đại tướng quân oai phong lẫm liệt đó đang đứng trên đài mặt mày sầu khổ hát:



- Gió nhẹ mây trong trời gần sáng, bà xã phạt ta quỳ trước giường. Hàng xóm đâu tỏ tường nổi khổ, còn tưởng (ta) thanh nhàn hóa ẩm ương.



Chính Đức và đám thị vệ đều ôm bụng cười vang, vô cùng vui vẻ. Gánh hát diễn tiếp đến đoạn Tiết độ sứ hẹn hò với tiểu nha hoàn ở hậu hoa viên, vừa gặp mặt liền vội vã nhào tới ôm ấp hôn hít cô nàng, rồi lại hát:



- Nha hoàn xinh đẹp, muốn giết ta ư, sao mãi lúc này nàng mới tới, mừng lắm thay, quần áo y nguyên ngồi ôm ấp, toàn thân trên dưới nàng đều thật đẹp, dù không thể chung giường ân ái, ta sờ chút thôi cũng đỡ thèm.



Khi hát đôi tay gã diễn viên còn không ngừng lên lên xuống xuống, bộ dạng hạ lưu vô cùng.



Người dân dưới đài lớn tiếng khen hay, có vài người lấy ít tiền đồng vứt lên trên đài. Gã diễn viên đóng vai tên lính quèn canh gác vội vàng cúi người xuống nhặt, đồng thời còn nháy mắt với người xem dưới đài, độc thoại rằng:



- Tiểu nha hoàn chỉ được mẽ xinh đẹp, hơn mười lăm tuổi rồi còn chưa từng lên đỉnh; phải biết là lão gia nhà ta sợ vợ, nếu không còn tưởng là thạch nữ(*) ở hậu hoa viên. Hê hê hê, xấu hổ thay, chẳng biết thiếu nữ hoài xuân làm sao chịu được cơn ngứa ngáy này!



(*): Phụ nữ bị dị tật bẫm sinh, có dị vật che chắn âm hộ;



Dưới đài lập tức vang lên vô số những tiếng huýt sáo, tiếng cười đùa, lại càng có nhiều tiền đồng được vứt lên đài hơn. Những người dân vùng biên ải cả ngày phải lăn lộn giữa sự sống và cái chết này quả biết hưởng thụ cuộc sống hơn người Trung Nguyên.



Nghe thấy những lời dâm dật đó, Trương Vĩnh cảm thấy hơi không ổn bèn ngoảnh đầu nhìn qua Chính Đức, thấy hắn đang nghe một cách say mê, nếu không phải còn nhớ mình đang ở trong hàng ngũ, e cũng sớm đã lao đến dưới đài cùng đám thảo dân kia hò hét không ngừng rồi. Lão hơi khó xử, nói với Dương Lăng:



- Đại nhân! Những lời hát này thực tục tĩu quá, để Hoàng thượng nghe thấy rất không ổn! Ngài xem… có nên kêu người đuổi bọn họ đi không?
Tiếp sau đó là đội súng ống, còn đội cung nỏ thì được xếp cuối cùng ở phía sau đội lính mang đao thuẫn và lính cầm côn sắt. Toàn bộ đội cung nỏ đều sử dụng những chiếc nỏ rất cứng, phải dùng chân mới có thể trương dây, có thể bắn tên xa tới năm sáu trăm mét, tên xuyên thủng giáp trụ là chuyện dễ như trở bàn tay.



Vốn kỵ binh sử dụng loại nỏ cứng này không thích hợp, nhưng Dương Lăng dẫn binh xuất kinh thì tác dụng chủ yếu của đội quân là phòng thủ, do đó y đã sắp xếp thêm tám trăm người sử dụng nỏ cứng bắn tầm xa. Thử nghĩ mà xem, khi khinh kỵ của đối phương đang ào ào xông tới, bầu trời phía trên đỉnh đầu bọn chúng đột nhiên xuất hiện một loạt tên dày đặc, rồi mấy trăm người ngựa bị bắn xuyên cơ thể gục ngã xuống đất, ngay sau đó lại là từng hàng từng hàng lao được ném tới.



Kế sau đó là loạt đạn đầy trời, rồi côn sắt và đoản đao cùng phát ra như mưa, trong thời gian ngắn đủ khiến cho bất kỳ đội tiên phong dũng mãnh nào của đối thủ cũng phải tan vỡ. Đợi khi đội ngũ chính của đối phương kịp xông tới thì đám khinh kỵ bọn họ đã quay đầu bỏ chạy xa rồi.



Trong hành dinh Khâm sai, Chính Đức cười híp mắt ngồi trên một chiếc ghế lớn bọc vải nhung, trước ngực ôm một đống lớn đồ ăn vặt, dáng vẻ rất khoan khoái, chẳng khác gì một đứa bé ngoan được dỗ dành nên hết sức vui vẻ. Để giữ bí mật thân phận của gã, người của gánh hát không được báo cho biết họ đang diễn cho ai xem, cũng không nhìn thấy Chính Đức. Trong sảnh treo rèm, hắn ngồi ngay sau bức rèm nên có thể nhìn rõ mọi thứ bên ngoài, nhưng đứng bên ngoài thì lại không thể nhìn rõ người bên trong.



Trên đài vừa mới bắt đầu biểu diễn, Chính Đức liền cười hà hà một tiếng, nhảy xuống bảo gã thị vệ bên cạnh:



- Ban thưởng cho bọn họ ra sức hát tiếp, sau khi trở về sẽ còn có trọng thưởng. Chúng ta đi thôi!



Viên thị vệ đại nội hơi ngẩn người, vội thấp giọng hỏi:



- Hoàng thượng! Chúng ta đi đâu?



Chính Đức trừng mắt nhìn gã, cười mắng:



- Đồ ngốc! Dương thị độc và Trương Vĩnh đi đâu thì trẫm tất nhiên cũng phải tới đó. Ở kinh thành thì không có cách nào cựa quậy được, nhưng đến đây rồi mà trẫm còn không thể tận mắt xem đại quân tác chiến, há lại chẳng nuối tiếc ư?



Sắc mặt viên thị vệ biến đổi hẳn, gã kinh hãi thưa:



- Hoàng thượng! Dương đại nhân đã dặn đi dặn lại xin Hoàng thượng ngàn vạn lần đừng rời khỏi dịch quán. Đang lúc có chiến tranh với giặc Thát ngoài biên cảnh, sự an toàn của Hoàng thượng quan trọng vô cùng, không thể đi được!



Chính Đức bất mãn:



- Lời của Dương Lăng thì ngươi nghe, lời của trẫm ngươi không nghe sao? Muốn kháng chỉ chắc? Hừ! Cứ nói là muốn phò tá trẫm làm một thiên tử anh minh; trông cái trò này, Dương khanh cũng muốn dỗ dành trẫm như dỗ dành trẻ con chắc, tức quá!



Thị vệ đã quen nghe mệnh lệnh của Hoàng đế, hai vị Khâm sai lại không ở đây, gã nào dám khảng chỉ nhưng vẫn thấp giọng van vỉ:



- Hoàng thượng! Sự an nguy của người quan trọng vô cùng, nếu người bị tổn thương gì thì dù róc xương lóc thịt bọn thuộc hạ cũng không bù đắp được.



Chính Đức đắc ý đáp:



- Ngươi không đoán được là trẫm muốn đi theo, Dương khanh cũng không đoán được là trẫm muốn đi theo. Ngươi tưởng trên đời này thật sự có thần tiên đoán được suy nghĩ nhất thời của trẫm hay sao chứ? Huống chi trong thành Đại Đồng có rất nhiều binh mã, một hiệu úy nhỏ nhoi như trẫm đi lại giữa thiên quân vạn mã, trên đầu lại không hề che lọng vàng, ai nhận ra ta được?



Hơn nữa ra khỏi Đại Đồng còn có Trường Thành, kế đó là hơn hai mươi công sự đóng quân như Hồng Tứ bảo, Trấn Xuyên bảo, Đắc Thắng bảo và hơn trăm phong hỏa đài. Trong thành thì có hơn mười vạn quân, giặc Thát vẫn còn ở ngoài Trường Thành, trẫm lại sợ đến nỗi không dám ra khỏi cửa ư? Bớt lằng nhằng, đi thôi!