Ngược Về Thời Minh

Chương 206 : Quyết theo đại soái

Ngày đăng: 13:23 30/04/20


Dương Lăng trở về chỗ ngồi, trầm ngâm một lúc rồi hỏi:



- Hai điều kiện thế nào? Ha ha! Mời sứ giả Nặc Mộc Đồ nói rõ!



Nặc Mộc Đồ khẽ mỉm cười, ánh mắt lập loè:



- Đoá Nhan Tam Vệ đội ân sủng của Hoàng đế bệ hạ cho phép lập Hãn xưng vương. Đương nhiên, cho dù đại thủ lĩnh của chúng tôi được xưng là Hãn cũng không dám đứng ngang hàng ngang vế cùng Hoàng đế bệ hạ Đại Minh, mà vẫn giữ vai vế theo lệ là chư hầu phiên vương của Đại Minh.



Dương Lăng cười nói:



- Ấy là lẽ đương nhiên. Tuy nhiên đến khi đó Hoa Đáng Khả Hãn nắm giữ thảo nguyên rộng lớn, cả đất đai lẫn dê bò, lại chỉ phải triều cống mà không phải nộp thuế, sưu dịch. Làm sao phiên vương Đại Minh ta có thể so bì?



Động lòng bởi viễn cảnh tươi đẹp do Dương Lăng vẽ ra, khoé mắt Nặc Mộc Đồ thoáng hiện vẻ mừng rỡ. Hắn cố trấn tĩnh lại rồi mới ra vẻ dè dặt nói tiếp:



- Chỉ có điều, Ngoã Lạt và Đại Hãn Thát Đát đều từng nhận được chỉ sắc phong của chính Hoàng đế bệ hạ, cho nên chúng tôi hy vọng cũng có thể nhận được sắc chỉ của Hoàng đế bệ hạ, cùng được ban kim ấn, phù tiết.



Dương Lăng sực tỉnh, thì ra vị đặc sứ này lo ngại Đại Minh chỉ chấp thuận ngoài miệng. Giữa ba bộ lạc Ngoã Lạt, Thát Đát và Ngột Lương Cáp của Mông Cổ thì bọn họ có sức ảnh hưởng bé nhất. Nếu như không được triều đình nhà Minh ủng hộ công khai, bọn họ sẽ không thể nào có được danh xưng Đại Hãn một cách danh chính ngôn thuận, ít nhất là trước khi bọn họ có đủ thế lực để áp chế hai bộ lạc kia.



Dương Lăng thoáng trầm ngâm, rồi gật đầu đồng ý:



- Lo nghĩ của ngài cũng có lý, ta sẽ tự bẩm báo chuyện này với Hoàng thượng. Chuyện thứ hai là gì?



Thấy Dương Lăng đồng ý, Nặc Mộc Đồ mừng rỡ ra mặt. Hắn trở về chỗ ngồi, suy nghĩ một chút rồi mới cẩn thận nói tiếp:



- Năm xưa do Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi theo phò dẹp loạn có công, hoàng đế Vĩnh Lạc đã ban thưởng cho chúng tôi Đại Ninh vệ (nay chính là Thừa Đức Thị, huyện Bình Tuyền, huyện Kiến Xương và lưu vực sông Lão Cáp).



Nhưng mà... chắc hẳn Dương đại nhân cũng biết, Tam Vệ chúng tôi sống bằng nghề du mục; dê bò là tất cả những gì chúng tôi có, song hoàng đế Vĩnh Lạc lại không cho phép chúng tôi nuôi thả ở địa khu Đại Ninh. Uổng cho mảng thảo nguyên rộng lớn mà lại không được chăn thả dê bò, cho nên hy vọng Hoàng thượng cho phép chúng tôi chăn thả ở khu vực Đại Ninh vệ.



Dương Lăng vừa nghe xong tim liền nhảy đánh thịch. Lúc suy đoán điều kiện mà Đoá Nhan Tam Vệ có khả năng sẽ đưa ra y liền nghĩ Đoá Nhan Tam Vệ có thể sẽ đưa điều kiện này ra, quả nhiên là vậy. Thật ra mấy chục năm trước Đoá Nhan Tam Vệ dưới sự hỗ trợ của bộ lạc Khoa Nhĩ Thấm có quan hệ thông gia với bọn họ đã đem quân tiến vào thành Đại Ninh, còn vượt Hội Châu (nay là huyện Bình Tuyền tỉnh Hà Bắc) thẳng tiến Khoan Hà (nay là xã Bộc Hà tỉnh Hà Bắc), không ngừng lấn đẩy xuống phía nam.



Nay, Đoá Nhan Tam Vệ trải dài từ thành Đại Ninh thẳng đến Hỉ Phong khẩu, cách Tuyên Hoá Hà Bắc một ngọn núi; thế lực của Thái Ninh vệ từ Cẩm Châu, Nghĩa Châu qua Quảng Ninh vệ đến tận Liêu Hà, thế lực của Phúc Dư vệ từ Hoàng Nê Oa qua Thẩm Dương, Thiết Lĩnh thẳng đến Khai Nguyên vệ. Trên thực tế dải đất rộng lớn lấy nam và đông dòng Tây Lạp Mộc Luân và Liêu Hà làm nơi khởi nguồn, tây kề Tuyên Phủ, đã nằm trong tay Đoá Nhan Tam Vệ.



Để Đoá Nhan Tam Vệ cùng Đại Minh liên binh đối phó Thát Đát mà chỉ cần triều đình Đại Minh công khai sắc phong một chức vị và thừa nhận quyền sở hữu một khu vực mà trên thực tế đã nằm dưới sự khống chế của bọn họ! Thoạt trông dường như Đại Minh không hề chịu phải tổn thất nào, thế nhưng Dương Lăng lại không khỏi do dự.



Đại Minh không cách nào khống chế những nơi này, trên thực tế bảo chúng đã rơi vào tay Đoá Nhan Tam Vệ cũng không sai. Thế nhưng công khai thừa nhận quyền sở hữu của bọn họ lại là cắt nhường quốc thổ, điều này thật sự sẽ để lại mối nguy hại vô cùng cho đời sau.



Năm xưa đại đế Vĩnh Lạc ban thưởng đất đai cho Đoá Nhan Tam Vệ là đã phạm phải một sai lầm trí mạng. Vệ sở Đại Minh nằm ngoài quan ngoại gắn liền một thể, giữa các vệ sở đã có sự tương hỗ cho nhau, vừa mất một mảng vào tay Đoá Nhan Tam Vệ thì cả hệ thống chiến lược này lập tức sụp đổ, giữa các vệ sở đã mất đi sự gắn kết hữu hiệu. Thậm chí một mình vệ sở Liêu Đông sẽ không đủ sức ngăn chặn sự tiến công của một bộ lạc nhỏ.



Những địa khu này đều là những yếu địa chiến lược quan trọng. Dương Lăng đang mưu tính châm ngòi nội loạn Thát Đát, rồi kéo Đoá Nhan Tam Vệ vào trong vũng bùn, sau đó tăng quân cho Liêu Đông, củng cố sự khống chế địa khu này thì sao y sẽ chịu tạo danh chính ngôn thuận cho người ta?



Thế là y bèn lắc đầu quả quyết:



- Sứ giả Nặc Mộc Đồ, ông phải biết rằng tuy các ông gặp phải nguy hiểm to lớn, nhưng lợi ích đạt được lại lớn hơn. Một khi khiến được Thát Đát thần phục các vị, các vị sẽ có thể chọn ra đồng cỏ và nguồn nước tươi đẹp nhất để chăn thả dê bò. Cho dù có thất bại, các vị lui về cố thủ Đoá Nhan Tam Vệ, có Đại Minh kiềm chế Thát Đát, bọn chúng cũng sẽ không làm gì được các vị. Liêu Đông là hàng rào chắn của kinh sư Đại Minh, chúng ta không thể bỏ nó.



Nặc Mộc Đồ vừa mới mở miệng định thuyết phục, Dương Lăng đã đưa tay lên ngăn:



- Sứ giả Nặc Mộc Đồ, chuyện này ta không cần phải xin ý chỉ của Hoàng đế bệ hạ, tuyệt đối không cần phải thương lượng. Liêu Đông, không thể được dùng để mặc cả!



Nặc Mộc Đồ cầm chén trà sữa lên uống một ngụm, rồi vuốt chòm râu dày đen như sắt nghĩ ngợi, một chốc sau hắn mới nói:



- Nếu công khai quyết liệt với Thát Đát, chúng tôi phải đương đầu với nguy hiểm rất lớn. Nếu như không có gì bảo đảm, toàn thể bộ lạc làm sao có thể yên tâm đây? Nếu đại nhân đã nói như vậy..., không biêt có thể bẩm với Hoàng đế bệ hạ rằng, để tỏ thành ý, Đoá Nhan Tam Vệ chúng tôi muốn cùng triều đình hoà thân(1) được không?



Dương Lăng thoáng sững người, y không ngờ Nặc Mộc Đồ lại dám yêu cầu hoà thân, lẽ nào là thực! Hoa Đáng còn chưa làm Đại Hãn, Đoá Nhan Tam Vệ đã cho rằng mình là triều đình Bắc Nguyên năm xưa dưới trướng có tứ đại Hãn quốc (vương quốc của Khan - ND) ư? Lại dám đòi hoà hiếu kết giao với triều đình nhà Minh!



Nặc Mộc Đồ thấy sắc mặt y sầm xuống, liền vội đính chính:



- Đại thủ lĩnh Hoa Đáng có một vị ái nữ tên Ngân Kỳ cô nương, là đoá hoa mỹ lệ nhất trên thảo nguyên Khoa Lâm Thấm,năm nay mới được 15 xuân xanh. Nếu như Hoàng đế bệ hạ không ghét bỏ, thủ lĩnh Hoa Đáng nguyện ý dâng cho Chính Đức hoàng đế bệ hạ làm phi...



Mặt Dương Lăng liền hết vẻ giận: thì ra là muốn tiến dâng mỹ nữ, hề hề, như vậy cũng tốt. Dù sao cũng là thông gia chính trị, xấu chút cũng không sao, dâng vào trong cung là được rồi. Dù sao thì ngay cả Hoàng hậu và hai vị quý phi hiện giờ đều là vật trang trí, Tử Cấm Thành còn ngại thêm một miệng cơm nữa sao? Hơn nữa... Khoa Lâm Thấm? Đệ nhất mỹ nữ Đại Ngọc Nhi của Mãn Châu hình như là một cô nương vùng thảo nguyên Khoa Lâm Thấm thì phải, tướng mạo vị tiểu thư Ngân Kỳ này chắc cũng không kém.



Nghĩ đến đây, Dương Lăng bèn mỉm cười định đồng ý rồi quay về bẩm báo với Chính Đức, nào ngờ Nặc Mộc Đồ lại thay đổi ngữ điệu, nói tiếp:
Chỉ huy sứ vệ Thái Nguyên là Trương Dần mỉm cười ôn tồn bảo:



- Hai vị tín sứ đi đường cực khổ, hãy uống tạm chén trà nóng trước đã.



Hai viên tiểu hiệu cung kính thưa:



- Quân vụ trên người, ti chức không dám trì hoãn! Đây là thư hàm về quân tình của Tam quan tổng chế Dương đại nhân, xin chỉ huy sứ đại nhân ký nhận.



Trương Dần liền vội tiếp lấy thư hàm, kiểm tra thấy dấu xi còn nguyên, bèn lấy tướng ấn đóng nhận vào sổ của hai người. Hai người tiểu hiệu cũng không hề uống đến một hớp trà mà lập tức vội vã cáo từ, rời khỏi lều soái rồi lên ngựa đi luôn.



Trương Dần trở về trong lều, bóc thư hàm ra xem dưới ánh đèn. Chính là Dương Nhất Thanh muốn đại quân của hắn dời trại đến đóng ở Quảng Vũ bảo cũ, ở đó đợi lệnh. Trương Dần búng ngón tay lên thư mấy cái, rồi khẽ mỉm cười, căn dặn quan thư ký ghi chép sắp xếp thư hàm lại, sau đó gọi quan trung quân lại bảo:



- Truyền lệnh đêm nay đóng trại ở đây, sáng sớm ngày mai khởi hành đến Quảng Vũ bảo cũ.



Quảng Vũ bảo trong huyện Sơn Âm chia làm hai thành mới và cũ. Thành mới được xây vào năm Hồng Vũ thứ bảy, nằm sát Trường Thành, do một vệ binh mã trú đóng. Quảng Vũ bảo cũ nằm về mé tây thành mới, nằm bên trong Trường Thành, vốn là nơi đóng quân. Quan trung quân nghe xong liền vội lui xuống truyền lệnh, Trương Dần khoát tay cho thân binh lui ra hết, rồi nhón lấy chén trà nhíu mày trầm tư.



Màn sau của lều được vén lên, một viên quan trung quân lặng lẽ bước vào. Trương Dần không hề quay đầu lại, chỉ trầm ngâm thật lâu rồi mới khẽ thở dài nói:



- Bao năm khổ tâm tổ chức, thành bại ở ngay trước mắt, trong lòng ta lại bồn chồn.



Gã quan trung quân nọ ngước đầu lên, không ngờ hắn chính là người áo xanh từng ngồi đối diện uống rượu với Du hộ pháp trên "Thái Bạch cư" ngày đó. Hắn cung kính thưa:



- Giáo chủ! Bản giáo hồng phúc ngang trời, nay Chính Đức thân rơi vào tuyệt cảnh mà không tự biết. Đệ tử thấy lần này hắn có lắp cánh cũng khó mà thoát được.



Trương Dần khẽ lắc đầu, đáp:



- Nghe nói hắn muốn dời đến Báo phòng, lão phu mới kêu người dụ đại đạo Dương Hổ vào kinh, ai ngờ lại uổng mạng Lưu hộ pháp, hai trăm tên đạo tặc cũng bị Dương Lăng hốt trọn một mẻ, Chính Đức lại chẳng hao tổn cọng lông sợi tóc nào. Lúc đến Đại Đồng, Vương Long lại bị y tra ra, hại cho Vương Hổ cùng bị chém đầu...



Hắn mệt mỏi nằm nửa người ra ghế, cười khẽ nói:



- Ngay cả bản giáo chủ cũng đã hơi tin mấy lời hoang đường nọ rồi, chẳng lẽ Dương Lăng này là khắc tinh của bản giáo hay sao? Trong kế hoạch lần này, Vương Hổ có tác dụng cực kỳ quan trọng, hắn mà chết thì sẽ không xong việc. Không có hắn, sợ rằng Chính Đức sẽ an toàn hồi kinh thôi. Ôi!



Ta đã phải trải qua bao trắc trở, tốn biết bao tiền bạc mới đưa hắn lên vị trí tham tướng thủ thành của thành tây, nhằm trông mong có ngày có thể trọng dụng. Nếu như có hắn làm nội ứng ở thành tây, chúng ta dẫn Bá Nhan bất ngờ tập kích nơi hội họp kết minh là núi Bạch Đăng, lại dụ Hỏa Sư đánh vào Đại Đồng, hai bút cùng vẽ, khiến Dương Nhất Thanh giữ chỗ này thì mất chỗ kia, không thể cứu viện kịp thời, ít nhất sẽ có bảy thành thắng lợi. Nay Đại Đồng vững như thành đồng, vậy chỉ có...



Đoạn hắn cười giảo quyệt nói tiếp:



- Cho dù thất bại đi nữa thì hao binh tổn tướng cũng không phải là nhân mã của bản giáo. Chỉ có điều cơ hội tốt đến như vậy mà cứ lãng phí thì thật là đáng tiếc.



Hắn chợt ngước mắt lên, ánh mắt như điện xẹt, bắn thẳng về phía gã quan trung quân nọ, hỏi:



- Con cờ bí mật đó vẫn chưa hấp dẫn sự chú ý của bọn chúng chứ?



Quan trung quân sợ hãi đáp:



- Dạ chưa! Giáo chủ yên tâm, vì để giữ bí mật, ngoài thuộc hạ ra, người của bản giáo ở Đại Đồng không ai biết được thân phận của hắn cả.



Đan mười ngón tay vào nhau, Trương Dần hài lòng nói:



- Ừ! Dương Nhất Thanh ra lệnh cho ta đóng quân tại chỗ, hẳn là vì Chính Đức đã liên hệ được với Hoa Đáng. Theo kế hôm nay, chỉ có thể lặng lẽ mà quan sát tình hình. Khi nào hai bên gặp mặt ký kết minh ước, vị Dương tổng chế này nhất định sẽ lập tức đưa tin đến cho ta ngay. Trăm sự đủ cả, chỉ thiếu gió Đông mà thôi(4)...



Chú thích:



(1) lệ xưa quân chủ phong kiến Trung Quốc muốn tránh chiến tranh xung đột nên gả con gái cho kẻ cầm đầu các bộ tộc ngoài biên giới để thông hôn hoà hiếu, gọi là "hoà thân".



(2) gọi chung nơi giao dịch với của dân Hán với dân các bộ lạc khác ở biên giới



(3) hai họ cưới con gái nhau làm dâu gọi là "hoán thân".



(4) nguyên văn là “mười tám cái lạy cũng đã lạy cả rồi, giờ chỉ còn thiếu mỗi cái vái sau cùng này thôi”. Đây là ngạn ngữ dân gian Trung Quốc.