Ngược Về Thời Minh

Chương 228 : Không sợ sóng dữ

Ngày đăng: 13:24 30/04/20


"Nhân dân sống gần biển không dưới chục triệu người, biển là ruộng đồng của cư dân ven biển. Các phủ các đạo miền duyên hải đều là nơi đất chật người đông, rừng chua đất mặn. Đa phần phố thị, thôn, xóm không có ruộng đất để trồng trọt, dân đen khó kiếm kế sinh nhai, đều nhờ vào mậu dịch hải dương để chu cấp cho cuộc sống cả nhà.



Cấm biển vốn do bởi giặc Oa hoành hành, nhưng từ lúc cấm biển đến nay giặc Oa càng lúc càng táo tợn. Dân chúng miền biển không nẻo sinh tồn, lại thêm mất mùa thất bát, dân nghèo bí bách phải xông ra đại dương làm cướp, tụ tập làm xằng.



Cấm biển hà khắc, trăm họ không có miếng ăn, nguyên do là vì lẽ ấy. Nếu luật ấy đã vô dụng, vậy thì đóng không bằng mở. Hơn trăm năm lại đây, tiền bạc đổ vào cho cấm biển nào chỉ là hàng chục tỉ. Cấm biển là vứt biển, vứt biển là vứt bỏ giang san, vứt bỏ giang san thì trăm họ sẽ không nơi nương tựa.



Biển cũng là cương vực của Đại Minh ta; ta có trách nhiệm giữ đất, ta cũng phải có trách nhiệm giữ biển, không thể vứt bỏ quyền lợi từ biển. Thần thỉnh cầu dỡ bỏ cấm biển, để cho Đại Minh ta thế vươn bốn bể, oai chạm tám phương, dẹp cướp an dân, khiến cho đồng hoang cỏ dại lại thành ruộng xanh cỏ tốt, tường xiêu ngói đổ lại thành lầu tía gác son, khôi phục mấy nghìn dặm tài phú, làm sống lại nghìn vạn sinh linh..."



Bài sớ vạn từ này của Nghiêm Tung, chữ như rừng rậm, đã nêu ra không chỉ rất nhiều ích lợi về các phương diện kinh tế, chính trị và quân sự của việc dỡ bỏ lệnh cấm biển, mà còn đề xuất ra được rằng một khi mở cửa biển sẽ cần phải thiết lập hải quan, ti Thị bạc, thủy quân như thế nào, ra làm sao; hết sức tường tận, lý hay lẽ đủ. Vua Chính Đức đọc xong, chẳng nói đúng sai, chỉ chiếu lệ phê cho chép vào công báo, rồi sai quan viên văn võ thảo luận phê bình.



Hơn trăm năm nay, Đại Minh không thiếu bậc học sĩ trí thức đề nghị giải trừ cấm biển, trong số đó cũng có những nhân vật có địa vị và danh vọng cực cao, nhưng những lời khuyên giải và nghị luận của các vị ấy đều như đá chìm biển rộng, chưa từng khơi dậy bất cứ cơn sóng lớn nào trong triều đình. Nghiêm Tung chẳng qua chỉ là một chủ sự Bộ Hộ cỏn con, ai mà thèm chú ý đến bài sớ vạn từ này? Thế là quan viên văn võ xem xong tấu chương, liền chỉ cười cho qua rồi đem vứt vào xó.



Thế nhưng, không biết vì sao bản công báo này lại được lan truyền vào trong dân gian và giới học sĩ. Hơn nữa, nằm ngoài dự đoán của mọi người, nó đã khơi gợi nên sự chú ý của các giai cấp sĩ nông công thương. Dân gian sôi nổi thảo luận về chuyện này, từ phạm vi giao lưu giữa các học sĩ học sinh, huân khanh quốc thích, cho đến những cuộc nói chuyện phiếm ở thanh lâu kỹ quán, khách sạn tửu điểm. Không lúc nào là không có người nhắc đến chuyện này, mô tả hàng loạt những tác hại của việc cấm biển cũng như viễn cảnh tươi đẹp của việc giải cấm thông thương. Ý dân và dư luận bắt đầu âm thầm biến đổi.



Trong khi đó, Lục Bộ, Hàn Lâm và Ngự Sử trong triều lại không hề phát hiện sự thay đổi này. Một số nhân vật lãnh tụ của bọn họ hoặc bị cử đi công cán xa, hoặc được cho về địa phương nhậm chức có thực quyền, hoặc được thưởng vàng cho nghỉ hưu. Những hành động này đều được bọn họ xem như là những thắng lợi nho nhỏ của việc dâng sớ can gián Hoàng thượng: Hoàng thượng chịu không xiết sự quấy nhiễu nên phải ra ơn ban huệ, chịu thua bá quan để cầu được yên bình. Vì thế bọn họ càng được thể lấn tới. Tố cáo Hoàng đế hoang đường vô lý! Tố cáo Lưu Cẩn bưng bít tai vua! Tố cáo Dương Lăng ngông cuồng phóng túng! Bọn họ tố cáo một cách điên cuồng, một cách không sờn lòng, không nhụt chí...



Còn đám người bị liên can thì mặc kệ những tấu chương hặc tội mình đang kéo đến ùn ùn như tuyết đổ; càng bị tố cáo thì càng làm tới. Kẻ hoang đường thì tiếp tục hoang đường, kẻ chuyên quyền thì vẫn cứ chuyên quyền, kẻ phóng túng thì lại vẫn phóng túng.



Hoàng đế Chính Đức đường đường là thiên tử thiên triều thượng quốc, thế mà việc đầu tiên hắn làm sau khi dọn đến Báo phòng lại là sai người may một số lượng lớn mũ nỉ và áo lông cừu, rồi nhân lúc trời chưa hết lạnh, đầu têu mặc lên người áo quần và phục trang Khả Hãn, lệnh cho toàn bộ thị vệ và cung nữ đổi sang mặc y phục người Mông Cổ. Hắn còn dựng một chiếc lều da trâu to đùng bên cạnh cái hào nuôi hổ, tự xưng là Đại Hãn Hốt Tất Liệt, sắm vai người Thát Đát để tự tiêu khiển; lại cùng một đám thị vệ "Mông Cổ", tăng lữ Lạt-Ma thúc ngựa băng băng, cử chỉ chẳng khác gì dân thường.



Hiện tại Hàn Lâm Viện như rắn mất đầu nên các viện sĩ phải mời một vị đại học sĩ đức cao vọng trọng, tuổi gần bát tuần đã cáo lão hồi hương an dưỡng tuổi già là Tra lão phu tử vào Báo phòng khuyên can Hoàng thượng. Được hai đứa cháu dìu đi, lão tiên sinh chân run lẩy bẩy bước vào Báo phòng, rồi tiến vào chiếc lều da trâu lớn.



Tra lão phu tử vừa trông thấy chiếc lều lớn của Khả Hãn Mông Cổ thì đã hơi choáng váng, lại thấy vị vạn tuế gia đang vận toàn trang phục Khả Hãn của người Mông Cổ thì càng không biết có nên quỳ lạy theo nghi lễ khi yết kiến nhà vua Trung Hoa hay không. Thế là uổng cho một thân tài học, cả buổi trời lão phu tử cũng không thể mở miệng nói được câu nào.



Tiểu hoàng đế Chính Đức lại không để ý đến sự thất lễ của lão, hắn giũ ống tay áo, hớn hở bước tới nghênh đón. Vừa tới trước mặt, hắn liền tặng cho lão phu tử một cái ôm nhiệt tình, phấn khởi chào hỏi:



-Trát Mộc Cáp huynh đệ, cảm tạ ngươi đường sá xa xôi đến thăm ta, mong trời cao ban phước trường sinh cho ngươi! Hãy mau ngồi xuống uống chén trà sữa nào.



Nghe hắn nói xằng nói bậy một hồi, Tra học sĩ giận đến xịt khói mũi, quên sạch những lời can gián uyển chuyển đã được chuẩn bị từ trước. Người run lên cầm cập như thể sốt rét, mãi một lúc sau lão mới lắp bắp được một câu:



- Thần... thần thần... xin cáo lui!



Đến lúc bước tới bên cửa lều, thật sự không còn nhịn được nữa, Tra học sĩ mới bèn xoay người đính chính:



- Hoàng thượng! Trát Mộc Cáp không phải là huynh đệ của Hốt Tất Liệt, mà là kết nghĩa cùng Thiết Mộc Chân làm an đạt (cổ ngữ Mông Cổ chỉ huynh đệ - ND).




- Không dám làm phiền đại nhân! Không dám làm phiền đại nhân! Phải chăng đại nhân muốn cùng Mâu đề đốc đi gặp Hoàng thượng?



Dương Lăng vờ ngáp lơ đãng, giọng nửa thật nửa giả:



- Đúng rồi!



Từ khi nắm giữ được ti Lễ Giám, có thể nói rằng Lưu công công nay đã khác xưa. Mâu đề đốc vì chút việc công lỡ đắc tội với Lưu công công nên hiện Cẩm Y Vệ bị ti Lễ Giám chèn ép hết sức kịch liệt. Mọi người đều vì Đại Minh, vì Hoàng thượng dốc sức mà thôi, sao lại nỡ đấu đá nhau tự làm hỏng trận thế của phe mình chứ? Lần này bản quan đi gặp Hoàng thượng là để hộ giá cho Mâu đề đốc đây. Người một nhà cả mà, đừng nên gây tổn thương hoà khí mới phải!



Khi bước đến cửa, y liếc nhìn Đới Nghĩa đầy chăm chú, rồi cất giọng nói đùa:



- Đới công trực thuộc ti Lễ Giám. Tuy ông là thượng cấp cũ của Lưu công, nhưng nay Lưu công thăng quan đổi tính; ngày thường làm việc ông cũng nên cẩn thận, chớ học Mâu đề đốc đắc tội với Lưu công công đấy!



Đới Nghĩa thoáng ngẩn ra, rồi chợt hiểu ý đồ đến thăm mình của Dương Lăng: “Hoá ra... Lưu công công và Dương đại nhân đã bắt đầu có hiềm khích rồi!”



Lưu Cẩn và Dương Lăng đều là những nhân vật mà lão đắc tội không nổi. Lão đã dự tính sẽ chuẩn bị hậu lễ lần lượt đi thăm hai vị đại nhân này vào đêm nay, bây giờ nghe Dương Lăng nhắc nhở như vậy, rõ ràng là ám chỉ đôi bên đang bất hoà, muốn xem thái độ của lão.



“Đứng về phía bên nào đây? Luận về quyền thế và địa vị, dường như hai người này không phân cao thấp! Nếu cậy nhờ Dương Lăng? Lưu Cẩn cai quản Đông xưởng, đó là thượng cấp trực tiếp của mình, đắc tội với lão ấy chỉ e sau này muốn làm gì cũng rất khó khăn. Nếu cậy nhờ Lưu Cẩn? Dương Lăng có thể đạp Cốc Đại Dụng xuống, đưa mình lên, chẳng lẽ lại không thể làm như thế một lần nữa? Huống chi liệu Lưu Cẩn sẽ chịu coi mình như người tâm phúc hay sao?



Mình có được ngày hôm nay đều nhờ Dương đại nhân hết sức nâng đỡ, nếu mình lấy oán trả ơn, ấy là vô sỉ. Vả lại, nay xem ra Cẩm Y Vệ và Dương đại nhân đã cùng chung một cánh, ngoài ra còn có Miêu Quỳ của Tây xưởng cũng qua lại rất thân thiết với Dương đại nhân. Chỉ dựa vào Lưu Cẩn có thể lật đổ được Dương đại nhân sao? Nếu gốc cây to như Dương đại nhân đây còn chưa ngã, thì con khỉ như mình sợ gì không có nơi yên thân gởi phận?"



Nghĩ vậy, Đới Nghĩa bèn nghiêm mặt lại, vái một vái thật sâu, nói:



- Đa tạ đại nhân nhắc nhở! Lão đây rời xa kinh thành lâu ngày, tai bưng mắt bít, nay sự đời đổi thay, rất nhiều chuyện lão đây không rõ lắm. Sau này nếu còn chuyện gì nghi ngờ khó quyết, vẫn mong đại nhân nhắc nhở thêm cho. Lão đây đã nhờ ơn tái sinh của đại nhân, nay tính mạng bản thân và gia đình lão đây xin gởi gắm cho đại nhân vậy!



Dương Lăng thoáng nhẹ lòng, bèn vội vái trả một vái, đáp:



- Đới công vạn lần chớ nên nói vậy. Thảng như hôm xưa không nhờ Đới công gởi lời cảnh báo, Dương mỗ nhất định đã bước chân vào tử cục do Phạm Đình bày ra. Phần ân tình đó Dương mỗ vẫn luôn ghi mãi trong tim. Dương mỗ nguyện cùng Đới công như cây liền cành, cùng nhau tương trợ. Hai chữ gởi gắm ấy, thực đã quá lời rồi!



Chú thích:



(1) xem hình http://baike.baidu.com/view/1906485.htm



(2) Hoàng hậu thứ hai của Hán Vũ Đế, là chị gái cùng mẹ khác cha của Vệ Thanh