Ngược Về Thời Minh

Chương 236 : Khởi Vận trở về

Ngày đăng: 13:24 30/04/20


Ý chỉ Hoàng hậu trừng phạt hai vị công chúa vừa được truyền khắp hậu cung, đám công chúa, phi tần, thái giám và cung nữ trông thấy lầu gác trong cung điện của công chúa Vĩnh Thuần và Vĩnh Phúc đèn đóm ảm đạm, có kẻ lắc đầu thở dài, có kẻ hả hê vui sướng. Nhưng chẳng mấy chốc, một ý chỉ khác của Hoàng thượng lại được truyền tới, phủ công chúa lại rực rỡ sáng trưng, mọi chi tiêu bị cắt giảm và thị tì bị rút đi đều được trả lại, còn đại tổng quản La Tường của phủ Nội vụ thì bị người của thống lĩnh thân quân Hoàng đế là Dương Lăng bắt đi, cách chức để điều tra.



Không ai nghĩ ra được Dương Lăng đã dùng cách nào mà phản kích nhanh như vậy. Nhưng khắp trên dưới hậu cung đều biết rằng hai vị công chúa và Uy Vũ hầu gia của ngoại đình qua lại thân mật, mà Uy Vũ hầu gia là tâm phúc số một của Hoàng thượng. Vì vậy trong trận đấu này, Hoàng hậu đã thua.



Sai người tức tốc vào cung truyền chỉ xong, Chính Đức vẫn chưa nén được giận, hắn căm hận mắng tiếp:



- Đồ khốn kiếp! Ngự muội của trẫm muốn dùng mấy ngọn nến đều phải đếm lên đếm xuống, vậy mà mấy vạn lượng bạc hắn nói tham ô là cứ tham ô, uổng cho trẫm luôn coi hắn là người tốt.



Dương Lăng vội khuyên nhủ:



- Hoàng thượng! Ngài cũng không cần phải quá tức giận. Hai vị công chúa bị nhốt trong cung nhiều năm, nỗi buồn khổ ấy Hoàng thượng ngài là người hiểu rõ nhất. Hoàng thượng thương cảm công chúa, dẫn các ngài ra ngoài giải khuây vốn là có ý tốt, cũng do thần không để ý đến những lễ nghi rườm rà dẫn đến việc vi phạm luật lệ trong cung...



Chính Đức vẫn chưa hết giận, khoát tay bảo:



- Chuyện này không can hệ gì tới khanh, chính là Hoàng hậu muốn làm trẫm bị mất mặt thôi. Cũng tốt, không làm vậy thì trẫm đã không nhìn thấy được lòng muông dạ thú của La Tường!



Dương Lăng thừa dịp vội thưa:



- Hoàng thượng! Hoàng hậu nương nương mới vừa hạ ý chỉ liền bị bác bỏ như vậy, mặt mũi nhất định sẽ rất khó coi. Nương nương là bậc mẫu nghi thiên hạ, là chủ nhân của sáu cung nên cũng không thể khiến Hoàng hậu nương nương bị khó xử được. Lúc thần cung thỉnh hai vị công chúa, vì ngại Hoàng thượng phải đợi lâu, đằng trước cổng cung lại đông mệnh phụ, trong lúc lo vội nên thần đã sơ sót chưa kịp xin phép nương nương, chung quy vẫn là lỗi ở thần.



Vả lại, mấy ngày nay tấu chương tố cáo thần cũng không ít, hai vị đại nhân Lưu Đại Hạ và Mã Văn Thăng bị mất chức, số người bất mãn trong quần thần nhất định rất nhiều. Chi bằng Hoàng thượng hạ chỉ trách phạt vi thần, một là giữ được thể diện cho nương nương, hai là có thể dẹp yên cơn giận của quần thần một chút, ba...



Chính Đức vừa nghe liền nổi ngạo khí, trợn mắt bảo:



- Đâu lại có lý lẽ như vậy! Trẫm đưa ngự muội ra ngoài du ngoạn, cô ta làm khó trẫm mà trẫm lại phải cẩn thận bồi thường ư? Phạt cái gì mà phạt?! Trẫm sẽ không phạt, ngược lại trẫm muốn xem coi ai dám động vào khanh!



Dương Lăng vội khuyên:



- Hoàng thượng, ngài đã quên rồi sao? Đợi khi tổng binh tứ trấn dẫn quân vào kinh, thần còn phải theo hoàng thượng diễn võ luyện binh nữa đó! Hoàng thượng tín nhiệm vi thần, giao phó cho thần rất nhiều chức vụ, nhưng như vậy một khi công việc bộn bề khó tránh sẽ xuất hiện sai lầm, vậy chẳng phải sẽ phụ lòng tín nhiệm của Hoàng thượng, khiến người ngoài nhìn thấy mà chê cười sao? Ý của thần là... giao ti Thuế Giám ra, để Bộ Hộ và ti Lễ Giám cùng cai quản, điều thứ ba đó... là để thần mới có thể theo Hoàng thượng luyện binh, phò tá Hoàng thượng hoàn thành bá nghiệp chứ.



Nghe y nói xong, Chính Đức chuyển giận thành mừng, bảo:



- Nói đúng lắm! Ta thực quên mất. Nếu để Dương khanh bận tâm đủ chuyện thì sẽ không có thời gian giúp trẫm luyện binh. Nhưng mà... ti Thuế Giám vốn thuộc sự quản hạt của ti Lễ Giám, trước đây vì lão thất phu Vương Nhạc lừa trên gạt dưới, trẫm không yên tâm mới chuyển giao cho khanh, nay cớ gì cần có Bộ Hộ nhúng tay vào, chẳng lẽ Lưu Cẩn cũng không đáng tin sao? Ái khanh có điều không biết, mỗi lần trẫm đòi tiền ở chỗ Hàn Văn, lão ấy lúc nào cũng than nghèo tố khổ với trẫm, trẫm thật không muốn để ý tới lão ấy.



Lúc này vẫn chưa phải là thời cơ để lật đổ Lưu Cẩn, từ chuyện Chính Đức xử lý Cốc Đại Dụng là có thể thấy ngay. Mối họa mà Cốc Đại Dụng gây nên còn lớn gấp mười lần La Tường mà chẳng phải tiểu hoàng thượng còn muốn che chở lão ta sao? Vị hoàng đế này trọng tình hơn là trọng lý, trừ khi anh làm tổn thương đến người thân thiết và tin cậy nhất của hắn, phản bội sự tín nhiệm của hắn, bằng không với tính tình của hắn, cho dù anh có phạm phải tội lỗi tày trời hắn cũng sẽ gánh vác thay cho anh.



Biết rõ điểm này, Dương Lăng bèn nghiêm mặt đáp:



- Thần không dám cam đoan cho mai sau, nhưng có thể khẳng định rằng hiện tại Lưu công công hết dạ trung thành làm việc cho Hoàng thượng. Thần có gì mà không tin ông ấy chứ? Thần làm vậy là để đôi bên cân bằng và kềm chế lẫn nhau, phòng tai họa mai sau thôi.



Cái gốc của việc trị nước nằm ở chỗ pháp luật công bằng, chế độ nghiêm minh, chính sách rõ ràng, cân bằng chu đáo. Thần hi vọng Hoàng thượng làm vậy, không phải là vì Lưu công công không đáng tin, mà do cần tính toán cho lâu dài mai sau mà hình thành chế độ kềm chế nhau. Như vậy mai sau sẽ không xảy ra chuyện lỡ việc do người, cũng không sợ có kẻ dối gạt Hoàng thượng, lại xuất hiện những kẻ như La Tường vậy.



Rồi y mỉm cười nói tiếp:



- Cứ lấy thần ra làm ví dụ, Hoàng thượng ăn thịt, thần cũng muốn húp được chút canh. Chúng thần phò tá Hoàng thượng đến lúc đầu bạc chân run, có con, có cả cháu rồi, không chừng cũng sẽ nảy lòng tham, không chừng cũng sẽ ăn chặn tiền bạc của Hoàng thượng, xà xẻo trên người Hoàng thượng. Nhưng nếu như có một đám người cứ nhìn thần trừng trừng, lúc nào cũng chuẩn bị tố cáo với Hoàng thượng thì thần làm sao còn dám làm bậy chứ?



Chính Đức bị y chọc cười, cười nói:



- Đừng làm ra vẻ đáng thương với trẫm, con của khanh cũng là con nuôi của trẫm đó, còn lo nó sẽ chịu uất ức hay sao? Ừm... Có điều khanh nói vậy cũng có lý, Bộ Hộ của ngoại đình và ti Lễ Giám của nội đình giám sát lẫn nhau, thuế khoá của thiên hạ sẽ không chảy vào túi của riêng ai, sau này có giao công việc này cho người khác, khi trao lại giang sơn này cho con cháu cũng sẽ không sợ có kẻ thủ lợi từ trong ấy. Cứ làm như vậy đi, ngày mai giao cho nội các thương nghị, xem thử quyền bính này phân chia như thế nào. Có điều...



Chính Đức áy náy nhìn Dương Lăng, rồi vỗ vai y an ủi:
- Dương đại nhân chớ nên khách sáo. Lão phu nhà ở Giang Nam, biết rõ tuy triều đình cấm biển cả trăm năm nay, nhưng thế gia vọng tộc hai tỉnh Chiết-Mân cùng Nhật bản đã buôn bán qua lại từ rất lâu. Sau khi triều đình ngưng việc cấp phép mậu dịch, nạn buôn lậu ở dân gian càng hoành hành thêm tợn, cấm biển sớm đã không còn giá trị gì, ngược lại chỉ khiến cho lượng lớn thuế khoá triều đình rơi vào tay các gia tộc phú hào địa phương mà thôi.



Vương Hoa thở dài nói tiếp:



- Chỉ có điều... Vương mỗ tự biết một cây làm chẳng nên non, không cách nào xoay chuyển được lệnh cấm; chỉ mong có ngày thời thế thay đổi, phát triển để triều đình có thể hưởng ứng ý dân mà dỡ bỏ cấm biển. Không ngờ đại nhân lại có sự kiên quyết như vậy, lão phu đương nhiên dốc sức giúp đỡ.



Dương Lăng biết vị Vương học sĩ này mặc dù bác học đa tài nhưng tính tình đạm bạc, có phần an phận. Tuy nhiên những điều ông nói cũng là sự thật, nếu không phải vì mình phải giở ra muôn vàn thủ đoạn, mà để cho một vị "quân tử thanh cao" như ông đi đầu đề xuớng bỏ cấm mở biển, thì mười phần hết chín sẽ không thành công, không khéo lại sẽ giống như Hoàng Kỳ Dận năm xưa, bị giai cấp thống trị hiện tại vứt bỏ.



Vương Hoa mỉm cười:



- Những nhu yếu phẩm mà Nhật Bản cần đều phần lớn được sản xuất từ triều ta. Tỉ như đồ gốm ở Nhiêu Châu, bông tơ ở Hồ Châu, mũ ô sa ở Chương Châu, vải bông ở Tùng Giang, cùng với sách vở, tiền đồng, tranh chữ, buôn tới Nhật Bản thu được lãi lớn, so với giao dịch cùng Lữ Tống(*) phải cao hơn gấp bội, quả thật là chuyện tốt cho nước cho dân.



(*): Đảo lớn thuộc quần đảo Philippin. Xưa, người Trung quốc gọi Lũ Tống thay cho Philippin.



Vì để chuẩn bị cho việc mở biển, không biết Dương Lăng đã thực hiện biết bao cuộc điều tra và chuẩn bị, cho nên y rất tường tận những chuyện này. Nghe vậy y bèn cười đáp:



- Đúng vậy! Nhật Bản chỉ có lác đác mấy loại hàng hoá như đao, kiếm, lưu huỳnh và quạt giấy để giao dịch với Đại Minh ta, còn lại đều chỉ có thể dùng bạc mà đổi lấy. Triều ta thiếu hụt bạc trắng, lượng lớn vàng ròng bạc trắng mà Nhật Bản sản xuất sẽ có thể vì vậy mà chảy vào triều ta, làm dịu nhu cầu dùng bạc của dân chúng. Hơn nữa vàng thật và bạc trắng tự có giá trị của nó, có thể lưu hành khắp thiên hạ, hết sức có ích trong việc tích góp sức nước cho triều ta đấy.



Hai người nói chuyện hết sức hợp, sau khoảng hai nén nhang mới trông thấy một đội nhân mã thong dong đi tới. Thấy thế, Dương Lăng nhíu mày:



- Người đưa tin của bản quan không nói cho bọn họ là thượng thư Bộ Lễ và bản quan nghênh tiếp ở đây hay sao? Sao lại chậm trễ như vậy?



Vương Hoa liếc đội kị mã hơn sáu chục người trước mắt, mỉm cười:



- Bọn lùn vẫn luôn tự cao tự đại, tự coi mình là cao quý, xưa nay đều vậy. Hơn nữa còn hết sức hám lợi, tâm cơ xảo quyệt, chớ cho bọn chúng cậy nhờ triều ta nên từ xa đến để triều cống; đến dưới chân thiên tử rồi mà bọn chúng vẫn còn muốn ra vẻ ngạo mạn đấy.



Đám người Nhật Bản ra vẻ cao quý, cố ý đi thật chậm rãi, Dương Lăng và Vương Hoa cũng không đứng dậy thu xếp đội nghi trượng chuẩn bị nghênh đón mà vẫn ngồi đó trò chuyện cười đùa. Vương Hoa liếc đội kị mã, hậm hực:



- Ắt vì triều ta thiếu hụt thuỷ quân, để giặc lùn hoành hành trên biển khiến ta bó tay chịu thua nên mới khiến đám lùn này mang lòng khinh rẻ.



Năm xưa bọn lùn sai trình quốc thư cho sứ giả nhà Tùy, từng tự xưng là "Thiên tử nơi mặt trời mọc" mà gọi vua Tùy là "Thiên tử nơi mặt trời lặn", ngoài mặt là để phân chia hai vùng đông tây, còn xem như đối đãi bình đẳng. Nhưng đến lần sau lại tự xưng là "Đông thiên hoàng" mà gọi vua Tùy là "Tây hoàng đế". Ha ha, một kẻ là Thiên hoàng, một người là Hoàng đế, chỉ đổi có một chữ liền đã đè lên đầu vua Tùy rồi.



Về sau nhà Đường phù trợ Tân La, còn nước chúng thì phù trợ Bách Tế(1). Hai bên đánh một trận lớn, hơn nghìn chiếc chiến thuyền lớn nhỏ của chúng lại bị một trăm bảy mươi chiếc tàu chiến của thủy quân Đại Đường đánh cho đại bại, từ đó chúng cam tâm xưng thần. Đại Đường lấy vị thế thượng quốc mà ban cho chúng quốc hiệu là "Nhật Bản", chúng cũng vui vẻ tiếp nhận, đủ thấy người nước chúng chỉ biết ức hiếp kẻ yếu mà e sợ kẻ mạnh.



Dương Lăng nghe vậy bật cười. Hoá ra sự thù ghét giữa hai bên đã bắt nguồn từ xa xưa chứ không phải đến thời cận đại mới có.



Lúc này đội kị mã đã đến gần, trong đội ngũ có vài chiếc xe ngựa chở lễ vật. Biết Thành Khởi Vận có mặt trong phái đoàn sứ giả, Dương Lăng bèn căng mắt lên nhìn. Y thấy trên mấy thớt ngựa dẫn đầu có hai vị là quan viên do Bộ Lễ phái ra, mà hình dáng của một vị thư sinh vận áo dài trắng đi bên cạnh lại vô cùng quen thuộc, liền không khỏi mừng rỡ.



Những người trong đoàn sứ giả theo hai quan viên bộ Lễ xuống ngựa bước tới. Khi còn cách tầm hơn chục trượng, Dương Lăng và Vương Hoa mới đứng dậy bước ra khỏi trường đình, mỉm cười nghênh đón.



Dương Lăng không nhìn về phía sứ giả Nhật Bản đi về phía mình, ánh mắt của y bất giác hướng về phía thư sinh áo dài trắng ở phía sau. Tuy người ấy bận nam trang, nhưng cặp mắt đa tình dịu dàng thật thân thuộc xiết bao.



Dương Lăng bỗng phát hiện thấy trong mắt nàng hiện lên hai đốm sáng trong vắt, là ánh nắng phản chiếu trong mắt nàng ư?



Dương Lăng đang chờ để nhìn cho kỹ thì Thành Khởi Vận chợt cúi đầu, ngón tay thon dài láng muốt như ngọc nhón lấy góc áo trắng tinh phẩy nhẹ lên má và dừng lại bên môi. Dương Lăng không nhìn thấy môi nàng, nhưng từ biểu hiện trên khuôn mặt nàng y lại có thể cảm nhận rõ cánh môi xinh đẹp của nàng khẽ nhếch lên cười ngọt ngào với y. Bất chợt một cảm giác choáng ngợp chạm vào tâm hồn như một hòn đá ném xuống mặt nước hồ; mặt hồ chợt lăn tăn gợn sóng.



Chú thích:



(1) Tân La (Silla) và Bách Tế (Baekje) là hai trong số ba nước Hàn Quốc xưa. Nước còn lại là Cao Câu Li (Koguryo)