Nhất Phẩm Giang Sơn
Chương 7308 : Trạng Nguyên gặp Trạng Nguyên
Ngày đăng: 01:25 20/04/20
Triệu Biện trên đường đi nói cũng không nhiều, nhưng lúc này, ông vội nhắc nhở Trần Khác không được mơ màng nữa:
- Trần học sĩ, chốc nữa, ngươi phải giữ vững tinh thần, chớ để thua ở trận đầu.
- Hả?
Trần Khác giật mình nói:
- Có chuyện gì vậy?
- Ngươi không thấy bên đối phương cũng cõ trạng nguyên sao?
Triệu Biện trừng mắt nói thẳng.
- Đúng là vậy.
Trần Khác gật đầu nói:
- Nghe nói y là trạng nguyên năm Thanh Ninh thứ nhất …
- Ở đại Liêu năm nay là năm Thanh Ninh thứ năm, y năm nay đã là Xu Mật Trực Học sĩ, có lẽ vị trí tiếp theo sẽ được phong làm tể tướng rồi.
Triệu Tích Tông không bỏ qua bất cứ cơ hội nào chất vấn Trần Khác nói:
- Thế nào, còn cảm thấy mình tiến rất nhanh sao?
Chức quan hiện giờ của Trần Khác chỉ là một chức quan chính lục phẩm chuyên tiếp đón đặc sứ nước ngoài, để làm tốt công tác đi sứ, hắn lại được giao cho lựa chọn hiền tài, tu sửa dịch quán của quốc gia, những tài năng suất chúng trong thiên hạ đều phải vượt qua các kì thi mới được chọn, riêng chỉ có duy nhất trạng nguyên không phải thi, một khi làm chức quan này, liền được làm ứng cử danh tiếng gọi là “Trữ tướng”, trong và ngoài nước đều gọi là học sĩ.
Trần Khác hai mươi bốn tuổi đã được xưng danh là học sĩ, mặc dù được thăng chức trước khi đi sứ, nhưng ở Tống triều nói như thế nào cũng là xuất chúng lắm rồi. Phải biết rằng trong quan trường của Đại Tống rất khó mà leo lên, cho dù là trạng nguyên cũng phải đạt được từ bát phẩm thì mới dần dần leo lên được, trong mười năm mà có thể vươn tới vị trí cao như này cũng là hiếm thấy. Nhưng trạng nguyên của Liêu quốc đã làm quan năm năm, không sớm thì muộn cũng sẽ chạm tới chiếc ghế tể tướng, thật sự khiến người khác phải ghanh tị…
- Ngươi chắc không hiểu rồi?
Trần Khác giọng khinh thường nói:
- Ở Liêu quốc quan vị rất nhiều, trên tể tướng còn có bảy tám quan vị nữa, sao có thể đem so sánh với Đại Tống của chúng ta được?
- Ha ha, ta nhận thấy sự đố kị trắng trợn của ngươi.
Triệu Tông Tích cười ha hả.
- Bình tĩnh đi hai vị.
Triệu Biện đột nhiên ngắt lời:
- Hãy nghĩ cách đối phó sắp tới đi? Ta ở trong nước cũng đã nghe qua danh tiếng của Trương trạng nguyên đó, nghe nói y là nhân tài số một của Liêu quốc, cũng là người qua lại với các cận thận chủ chốt trong triều, vì sao y phải ngàn dặm ra tiếp đón, chẳng phải là muốn khiêu chiến với trạng nguyên Tống quốc hay sao?
Tống Liêu hai nước mấy năm nay đã ngừng giao chiến, nhưng hai bên chưa bao giờ ngừng chạy đua. Trên mặt trận ngoại giao chúng ta cố gắng gìn giữ ưu thế về văn hóa của Trung Nguyên, đa số các sứ thần mà Tống triều phái đến Liêu quốc đều là văn nhân danh sĩ, mà Liêu quốc vì để bảo toàn thể diện, người được cử đi tiếp đón đương nhiên cũng phải là những văn nhân sĩ thần cao nhất của phương bắc rồi.
Khỏi cần nói, mỗi lần đi sứ đều là một trận đấu trí khéo léo, tài năng, đây không chỉ là việc có liên quan đến vinh nhục của cá nhân, mà còn là thể diện của cả một quốc gia.
Sau khi hiểu rõ hoàn cảnh của mình, Trần Khác gượng cười nói:
- Chẳng lẽ lại khai chiến ở cái huyện thành nhỏ bé này?
- Lần này chỉ là tỏ chút uy phong, áp đảo tinh thần mà thôi.
Triệu Biện nói:
- Trò chơi chính thức sẽ được trình diễn trước mặt của hoàng đế Liêu quốc.
- Vẫn còn tiếp tục ư…
Trần Khác buồn bực nói.
- Phải nói như thế nào nhỉ, sứ thần có thể vinh quang trở về, có thể làm tể tướng không, đều phải trải qua quá trình gian khổ này.
Triệu Biện nhìn hắn với ánh mắt thông cảm nói:
- Ta xem trọng ngươi, Trần học sĩ ạ.
- Ta cũng rất xem trọng ngươi.
Triệu Tông Tích cười trên nỗi khổ của người khác.
Đang nói chuyện, thì một viên quan của Liêu quốc đến mời dự tiệc. Triệu Biện lo lắng dặn dò vài câu mới cùng Trần Khác và Triệu Tông Tích tiến vào phòng tiệc. Đây là một đại sảnh xoắn hợp với phòng khách, trong sảnh đường hoàn toàn được bài trí theo phong cách của Tống triều, bố trí hai hàng án kỷ, quan viên hai nước ngồi ở hàng ghế danh dự, những thứ khác cũng được bày biện đúng vị trí.
Không biết là cố ý an bài hay chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên, Trần Khác ngồi đối diện với Trương Hiếu Kiệt. Trương trạng nguyên mỉm cười nhìn hắn, đôi mắt có chút thách thức.
Đôi mắt híp của Trần Khác cũng không tỏ ra yếu thế, đáp trả lại y bằng con mắt khinh miệt.
Không khí phảng phất mùi thuốc súng.
Đương nhiên mọi người đều là những người có địa vị, không thể vừa vào đã bóp cò được.
Tiếng nhạc vang lên, bàn rượu đã bắt đầu khai tiệc. Mặc dù chỉ là một bữa tiệc nhỏ tại dịch quán biên giới, nhưng cũng không thể ngồi xuống là uống, mà phải tuân thủ đúng lễ nghi.
Dựa theo những phép tắc cổ xưa, thì lễ nghi uống rượu gồm có bốn bước: bái, tế, thối (nếm thử), tốt tước. “Bái” là đôi bên phải cúi lạy nhau để bày tỏ sự kính trọng lẫn nhau. Cho nên trong phòng tiệc không nhất thiết phải có bàn, mà chỉ dùng án kỷ thời cổ đại, hai bên sau khi hành lễ mới được ngồi vào chỗ.
Sau khi đã an tọa, rượu trong bình sẽ được đổ xuống dưới đất một ít, để tế tạ ơn sinh dưỡng của trời đất. Sau đó mới nhấp một ngụm nếm thử, nên gọi là “thối”, quan khách sau khi nếm rượu xong sẽ có lời tán dương rượu, làm cho chủ nhân cảm thấy vui mừng.
Cuối cùng là “tốt tước”, là dốc chén cạn sạch, nhất định phải cạn ly để chứng tỏ rượu ngon.
Sau đó, chủ nhân sẽ đi kính rượu các quan khách nên gọi là “thù”, quan khách cũng phải kính rượu lại chủ nhân, cử chỉ này được coi là “ Tô”, cứ theo trình tự lần lượt mà kính rượu gọi là “hành tửu”
Khi mời rượu, người kính rượu và người tiếp nhận đều không được ngồi, khi đứng dậy phải cách chỗ ngồi lúc đầu một chút, lúc kính rượu phải nói mấy câu kính rượu. Kính rượu thường mời ba chén.
Nghi thức mời rượu khác xa với hậu thế sau này, khi người bề trên có lệnh uống rượu, thì bề dưới mới có thể nâng cốc lên; nếu rượu trong cốc của người bề trên vẫn chưa uống hết, thì bề dưới cũng không được uống hết trước. Cho nên sau này chạm cốc để kính nhau, chứ không phải cạn trước vì giáo.
Còn có nhiều nghi thức rườm rà nữa, nhưng đã được bỏ bớt đi, chỉ trừ trong trường hợp ngoại giao thì có khác một chút, từng việc từng việc đều phải được nhấn mạnh.
Tóm lại, hoàn toàn phải tuân thủ theo lễ nghi của một bữa tiệc cổ đại, mọi người đều bị gò bó lại trong các quy tắc, rồi dần dần được nới lỏng ra nên mới có một nền văn hóa rượu đa dạng phong phú như hôm nay…
Sau khi hoạt động kính rượu mang tính lễ nghi kết thúc, phò mã Liêu quốc Tiêu Hồ Đổ mới nói:
- Ở một huyện thành nhỏ, hẻo lánh này, không có các thiếu nữ nhảy múa hát ca, khiến tiệc rượu hôm nay kém vui.
Y vừa nói vừa nhìn Triệu Tông Tích nói:
- Chi bằng chúng ta hành tửu lệnh rượu góp vui hơn đi?
- Không biết bắc triều hành tửu lệnh như thế nào?
Triệu Tông Tích mỉm cười hỏi.
- Cũng không có gì khác biệt với nam triều.
Câu nói của Tiêu Hồ Đổ khiến ta liên tưởng tới tình trạng “chuộng đồ Hàn, đồ Nhật” như hiện nay. Châu Á thời kì này, là tập hợp những thứ sùng Tống, ngay cả hùng mạnh như Liêu quốc cũng không thể bỏ qua “độc trà”, trên thực tế, vì người Hán chiếm đa số, mà sự tiếp xúc giao lưu với triều Tống là thường xuyên, cho nên giới quý tộc Liêu quốc đã bị Hán hóa ở một mức độ cao.
Bọn họ nói tiếng Hán, mặc trang phục Tống, học Luận Ngữ, còn theo lễ nghi Hán… Các phương diện trong cuộc sống hằng ngày cũng học theo các sĩ phu đời Tống. Biện Kinh có trào lưu mới nào, nhiều nhất cũng không quá nửa năm sẽ được truyền đến Trung Kinh, và sẽ được lưu truyền rộng rãi trong xã hội thượng tầng của Liêu quốc. Hoàng đế của Liêu quốc trong những thời đại khởi đầu đều ban bố những pháp lệnh cấm bắt chước trang phục của người Hán, nhưng không thể ngăn được, giới quý tộc Khiết Đan bị Hán hóa ngày càng nhiều, dường như điều này có thể phân biệt với tầng lớp bình dân.
Hiển nhiên người Liêu quốc đã sớm nghe đại danh vang dội khắp nơi của Trần Khác, những bài thơ hắn làm khiến mọi người ai cũng thích. Chỉ sợ cứ vươn theo chí khí của hắn sẽ làm mất đi uy phong của chính mình, mới giả bộ không biết lời đồn đại về hắn như thế nào…
Nếu là hành tửu lệnh, tất nhiên mọi người đều phải tham gia, cho nên khi bắt đầu, trước tiên phải thực hiện một số quy tắc nhỏ, đơn giản. Thí dụ hạn chế nói chữ lệnh. Yêu cầu nói một câu, lấy chữ “tương” làm đầu, chữ “nhân – người” kết thúc. Tiêu Hồ Đổ làm trước:
- Tướng quen biết khắp thiên hạ, tri âm có mấy người?
Triệu Tông Tích tiếp luôn:
- Tương phùng bất ẩm không hồi khứ, động khẩu đào hoa dã tiếu nhân.
Da Luật Đức Dung ngẫm nghĩ một chút, cười nói:
- Tương Châu có một đấng mày râu.
Lệnh chủ Triệu Biện chất vấn:
- Cuối câu yêu cầu có từ “nhân”, trường hợp của ngài không tính.
Da Luật Đức Dung cười phản bác:
- Đấng mày râu không phải là người sao?
Câu phản bác này khiến mọi người trong phòng cười rộ lên, nhưng chính y cố ý giả vờ giả tịch.
Ở đây không phải là những đồ bị thịt, những tên bị thịt không giám có mặt ở đây, hầu hết mọi người đều tiếp đối rất trôi chảy, không khí ứng đối trở lên sôi nổi hơn, mức độ mới bắt đầu khó hơn…
Sau khi cảm thấy sức nóng đã được lan tỏa, Tiêu Hồ Đổ lại đưa ra một luật chơi mới. Luật chơi này yêu cầu mọi người trước hết phải nhắc tới một vật rơi xuống đất mà không có tiếng động, tiếp đó nhắc tới một cổ nhân có quan hệ với đồ vật này, từ cổ nhân này lại dẫn ra một cổ nhân khác, cổ nhân đầu tiên hỏi cổ nhân sau một chuyện, cổ nhân sau phải dùng một bài thơ đường để đáp lại, yêu cầu xâu chuỗi liên kết trước sau với nhau, không được ghép một cách gượng gạo.
Giới hạn yêu cầu ngày càng nhiều, độ khó tất nhiên sẽ cao, đặc biệt hơn là dưới tình huống trường thi kiểu mới này.
Đưa ra điều kiện xong, Tiêu Hồ Đổ lại làm trước tiên:
- Đầu bút rơi xuống đất không tiếng động, ngẩng đầu thấy Quản Trọng. Quản Trọng hỏi Bảo Thúc: “Vì sao không trồng trúc? Bảo Thúc thưa: “Chỉ cần hai ba sào, gió mát tự nhiên đủ.”
Quản Thành Tử là cách gọi khác của bút, hai người Quản Bảo đều là đại phu của Tề Hoàn Công, còn trúc là vật liệu dùng để chế tạo ra ống bút. Trước sau logic với nhau, không gượng gạo, gò bó.
Triệu Tông Tích và Triệu Biện cũng đang vắt óc suy nghĩ, nhiều câu như vậy không thể để xảy ra sơ xuất, về nhà liệt kê ra, tỉ mỉ phân tích may ra mới có thể làm được. Muốn mở miệng cáo lui chứ không thể nào đỡ nổi, bọn họ đành trông chờ từ phía Trần Khác. Cũng chỉ có thằng tiểu tử Trần Khác mới có thể xuất chiêu ứng đối khi Tô Thức và Tiểu Muội tra tấn. Hắn suy nghĩ một chút rồi đọc:
- Hoa tuyết rơi xuống đất không tiếng động, ngẩng đầu thấy Bạch Khởi. Bạch Khởi hỏi Liêm Pha:
“Vì sao không nuôi ngỗng?”, Liêm Pha đáp: “Lông trắng nổi trên mặt nước biếc, chân đỏ đạp trong làn sóng xanh.”
Tuyết có màu trắng, hai người đều là những danh tướng thời chiến quốc, ngỗng có lông màu trắng…”
Triệu Tông Tích và Triệu Biện thở phào nhẹ nhõm.
Chuyện này quả nhiên không làm khó Trần Khác, Trương Hiếu Kiệt lại ứng tiếp:
- Hoa trời rơi xuống đất không tiếng động, ngẩng đầu thấy Bảo Quang. Bảo Quang hỏi Duy Ma: “Tăng đi gần đến nói gì? Duy Ma đáp: “Gặp khách đầu như ba ba, phùng trai hạng như ngỗng.”
Bảo Quang là danh pháp của phật ở Tây Thiên, Duy Ma là một cư sĩ nổi tiếng, cư sĩ thường ăn chay niệm phật. Ba người trên đều có liên quan đến nhau.
Đúng lúc này, Trần Khác lại nảy ra ý đối liền đọc:
- Chú tiết (mảnh vụn bị mọt đục) rơi xuống đất không tiếng động, ngẩng đầu thấy Khổng Tử. Khổng Tử hỏi Nhan Hồi: “Vì sao không trồng mai? Nhan Hồi đáp: “Trước thôn sâu trong tuyết, đêm qua một cành nở.”
Nơi ở của con mối tất có lỗ (Khổng), Nhan Hồi là đệ tử của Khổng Tử, hoa mai có sắc, tương tiếp với “nhan”.
Trương Hiếu Kiệt suy nghĩ một chút lại tiếp lời:
- Nguyệt hoa rơi xuống đất không tiếng động, ngẩng đầu thấy Đỗ Phủ. Đỗ Phủ hỏi Lý Bạch: “Năng phù nhất đại Bạch? (có thể uống một chén lớn không?) Lý Bạch đáp: “Phải uống rượu ngon, thừa lúc nguyệt còn trên đài cao.”
Đỗ Phủ có viết bài thơ “Thạch loạn thượng mây trôi, sam thanh diên nguyệt hoa”. Hai người là bạn tốt, Lý Bạch là tiên rượu.
Lại đến lượt Trần Khác, thấy hắn cau mày rồi đối luôn:
- Tú tuyến rơi xuống đất không tiếng động, ngẩng đầu thấy Hồng Độ. Hồng Độ hỏi Huyền Cơ: “Có muốn làm vợ ta? Huyền Cơ đáp: “Mình có thể nhìn trộm Tống Ngọc, hà tất gì phải hận Vương Xương.”
Hồng Độ là tên của Tiết Đào, còn Ngư Huyền Cơ là tài nữ ở đời Đường, Ngư Huyền Cơ còn được nhiều đời biết đến vì có đời sống tình cảm phong phú…
- Hồng diệp rơi xuống đất không tiếng động, ngẩng đầu thấy Cố Huống. Cố Huống hỏi cung nữ: “Có chuyện gì mà làm bài thơ này? Cung nữ đáp: “Mộng vì viễn biệt khó lòng kêu, thư bị giục khiến mực chưa nồng.
Thời gian suy nghĩ của Trương Hiếu Kiệt ngày càng kéo dài, dưới cái nhìn soi mói của Tiêu Hồ Đổ và Da Luật Đức Dung y vất vả lắm mới xuất ra được một câu.
Đây là nam, nữ, niên…trong bài thơ “Hồng Diệp Thi”
Trần Khác vẫn bình tĩnh như cũ, mỉm cười nói:
- Nguyệt quang lạc địa vô thanh, ngẩng đầu thấy Khổng Minh, Khổng Minh hỏi Nguyệt Anh: “Làm sao không phụ khanh?” Nguyệt Anh đáp: “Phía đông mặt trời mọc, phía tây mưa là vô tình mà lại hữu tình.” Khấu chặt một nguyệt minh.
Có sự liên hệ ba người với nhau.
Trương Hiếu Kiệt lúng túng như gà mắc thóc, cuối cùng cũng đọc liều ra một câu:
- Bạch hồng lạc địa vô thanh, ngẩng đầu thấy Kinh Kha. Kinh Kha hỏi Tiệm Ly: “quân cầm hà sở ý? Tiệm Ly đáp: “Nhân sinh nếu chỉ như lúc mới gặp, thì việc gì phải xót thương họa phong thu phiến.”
- Ha ha, chẳng phải nói dùng thơ Đường sao.
Triệu Tông Tích ngay lập tức vạch trần:
- Câu nói này dường như không giống với thể thơ Đường thì phải?
- Chính xác không phải thơ Đường.
Trương Hiếu Kiệt như trút được gánh nặng, chính là đang chờ y hỏi. Hiếu Kiệt ôm quyền lịch sự hướng về phía Trần Khác nói:
- Tại hạ thật sự phục sát Trần học sĩ….
Những sáng tạo trong khúc “Mộc lan từ” này, khiến hắn không ứng đáp nổi bèn xin dừng ở đây.
- Ha ha ha.
Tiêu Hồ Đổ cười nói tiếp:
- “Tặc thế thịnh, không thể tham chiến” tạm thời di chuyển dân chúng của ba châu xuống phía nam.
Giám Quân Vương Sân lại cho rằng nên đón đánh địch chính diện. Dương Nghiệp lắc đầu nói, như vậy thì thua chắc rồi…
Sắc thái của Vương Sân biến đổi thất thường, trong ánh mắt tràn đầy lòng khinh miệt căm thù quân địch, liền châm chọc ông ấy:
- Quân hầu mang tiếng là vô địch, ra lệnh cho hàng vạn tinh binh, vậy mà nhìn thấy địch vì sợ hãi mà trốn tránh sao?
Thất bại? Ngài không phải là tướng quân vô địch tiếng tăm lừng lẫy đó sao? Thống soái hàng vạn binh, chỉ nghĩ đến chạy trốn, ngài không phải muốn làm phản đi theo địch sao!
Lời này người khác nghe xong, sẽ có rất nhiều người vì thế mà tức giận, nhưng đối với Dương Nghiệp mà nói, lại là rất có ích cho ông! Bởi vì ông vốn là tướng lĩnh của Bắc Hán, sau khi Tống diệt Bắc Hán, ông đi theo Lưu Kế Nguyên đứng trong hàng ngũ Tống, mặc dù không phải do ông chủ động đầu hàng, nhưng đạo lý “Trung thần không thờ hai chủ” đối với Dương Nghiệp lại cảm thấy hổ thẹn với lương tâm, trước sau thì cũng trở thành tâm bệnh.
Dương Nghiệp tức giận không chịu nổi, vì sự tôn nghiêm của chính mình, ông lập tức đồng ý xuất trận.
Nhưng trước khi đi, ông đột nhiên hướng về phía người cộng sự lâu năm Phan Mỹ, giọng ông trầm xuống nói:
- Lần này đi dù có thất bại cũng không hối tiếc, ta vốn là tướng bại trận đầu hàng, đáng chết từ lâu, vậy mà chủ thượng lại còn ủy thác trọng trách cho ta, hôm nay ta xin lấy cái chết để báo đáp.
Im lặng một lúc, ông hạ giọng nói:
- Chỉ có điều ngươi có thể cho quân cung tiễn mai phục ở hai bên khe núi Trần Gia không? Khi ta thua, nếu không có tiếp viện thì toàn quân sẽ bị diệt rồi…
Phan Mỹ gật đầu, mong ông cứ yên tâm.
Dặn dò xong, Dương Nghiệp thống lĩnh đội quân của mình ra trận. Tiếng áo giáp cọ vào nhau leng keng, ba quân im lặng, họ tự biết rằng hướng về phía bắc thì chỉ có con đường chết, con đường bại trận mà thôi, chặn đầu đoàn quân Liêu quốc, chỉ mong chứng minh lòng trung trinh của mình.
Ngoài Nhạn Quan Môn, thống soái Liêu quốc Da Luật Tà Chẩn không dám tin vào mắt mình, “Dương vô địch” đã giao chiến với Liêu quốc được ba mươi năm, nhổ trại phá rào, bách chiến bách thắng, không ngờ ngay lúc này lại quyết định tiến công, trừ phi đầu óc ông có vấn đề?
Nhưng thịt đưa đến miệng hổ rồi, sao có thể bỏ qua?
Khi gặp kẻ thù, hai mắt tức giận đến đỏ ngầu, hai bên chém giết, chém giết rồi lại chém giết, đánh nhau suốt một ngày ròng rã. Dương Nghiệp thấy bộ hạ đã vượt qua giới hạn, liền dẫn quân vừa đánh vừa lui.
Quân Liêu sao có thể để cho “Dương vô địch” hành hạ bọn họ ba mươi năm qua chạy thoát? Lập tức bám đuôi đuổi theo.
Cứ như vậy, hai bên một rút một truy, tới khe núi Trần Gia.
Hoàng hôn lúc này vừa buông xuống, Dương Nghiệp dẫn quân lui về cửa cốc, chỉ thấy hai bên im lìm yên ắng, không một bóng quân cứu viện nào...
Phía sau, quân địch trùng trùng lớp lớp đã đuổi tới, đội quân của Dương Nghiệp xuất binh từ sáng, đến giờ đã không có hạt cơm giọt nước vào bụng, tất cả đều mệt mỏi rã rời. Nếu hoảng hốt rút lui, chỉ có thể bị chết dưới gót ngựa của thiết kỵ Khiết Đan.
Bộ hạ muốn yểm hộ ông đột phá vòng vây, nhưng Dương Nghiệp cự tuyệt, ông ngửa mặt lên trời than rằng:
- Đây chính là số mệnh của ta! Bệ hạ, trời xanh chứng giám, Dương Nghiệp vì ngài mà tận trung!
Cuối cùng Dương Nghiệp cho phép những binh sĩ nào là con một trong gia đình, hay có phụ nữ phải chăm sóc, cả những huynh đệ đã vào sinh ra tử với ông hãy chạy trốn đi, còn mình thì dẫn số quân còn lại khoảng mấy trăm người quyết tử quyết sinh với quân Liêu, con trai của Dương Nghiệp Dương Diên Ngọc và bộ hạ Vương Quý cũng đã hi sinh...
Ánh trăng nhuộm màu máu, trên khe núi Trần Gia, lão tướng hơn mười vết thương trên người, cả người đẫm máu, râu tóc dựng đứng cả lên, xông lên liều chết, một tay đâm mấy chục đến trăm quân Liêu.
Cuối cùng, danh tướng Liêu quốc Tiêu Đạt Lẫm, âm thầm bắn lén, bắn trúng chiến mã của ông, ngựa ngã quỵ xuống đất, khiến ông cũng ngã dúi xuống đất. Liêu quân thừa cơ xông tới, bắt lấy ông...
Liêu quân thắng trận, miệng họ hô to bắt sống được “Dương vô địch”, đây là chiến công mà có nằm mơ bọn họ cũng không nghĩ tới.
Nhưng điều mà bọn họ có được chỉ là thi thể của Dương Nghiệp. Lão lệnh công bị bắt, đã tuyệt thực ba ngày mà chết...
Sau này điều tra đội quân cứu viện hôm đó đã đi đâu? Thì được biết rằng bọn họ đợi mãi không thấy Dương Nghiệp đến, Vương Sân vui mừng khôn xiết, y cho rằng Dương vô địch một lần nữa lại tạo lên kì tích, như vậy bao nhiêu công lao đều bị Dương Nghiệp cướp hết, y liền lệnh cho Phan Mỹ dẫn quân lập tức đi khỏi. Ai ngờ rằng đi tới nửa đường, mới biết Dương Nghiệp đã thua trận, bọn họ vội rút lui, không một quân binh nào đến cứu viện...
Hoàng hôn xuống đã sâu, đứng trong từ đường, cũng đã không nhìn rõ gương mặt của lão lệnh công, Trần Khác hạ giọng nói:
- Ý của Dương gia chính là muốn xem xem có thể mang hài cốt của lão lệnh công về quê hương được không...
- Liêu quốc có thể đồng ý sao?
Triệu Tông Tích nhỏ nhẹ nói.
- Không thể, từ sau khi lão lệnh công tử trận trên sa trường, Đại Tống vẫn đàm phán xin lại hài cốt.
Trần Khác nói nhỏ:
- Nhưng người Liêu nói, người Tống chúng ta có lỗi với Dương vô địch, ông ấy không về nữa...
Nghe xong những lời này, với lòng tự tôn mãnh liệt của Triệu Tông Tích, y cũng không thể nói thêm gì.
Một lúc sau, Triệu Tông Tích mới chậm rãi nói:
- lão Lệnh công đã yên mồ, quả thật không nên kinh động đến ngài.
Ngập ngừng một lúc, y từng câu từng chữ, ghi lòng tạc dạ nói:
- Hay để chúng ta cướp lại Yến Vân đi!
Một con thiên nga bay qua nóc nhà, nó kêu một tiếng rung trời...
Trên đường trở về, hai người im lặng suốt nửa đường. Cho mãi tới sau khi xuống núi, mới ngoái lại nhìn lên triền núi âm u tĩnh mịch, Triệu Tông Tích mới buồn bã nói:
- Ngươi nói xem, cái chết của Dương lão lệnh công rốt cuộc là lỗi tại ai?
-…
Trần Khác nghĩ một lúc lâu, nhưng cuối cùng hỏi một đằng hắn lại trả lời một nẻo:
- Thực ra, những kiến thức lịch sử mà chúng ta học được đều là những chuyện lừa người. Thống soái nước Liêu Da Luật Tà Chẩn không bao giờ tôn trọng Dương lão lệnh công. Mà y còn chặt thủ cấp của người, mang đến Mạc Bắc Liêu Đình nhận công, sau đó mới loan truyền khắp vùng biên cương để cho quân Tống và quân Liêu đều nhìn thấy kết cục của Dương vô địch.
- Ta hỏi ngươi đó thuộc về trách nhiệm của ai mà?
Triệu Tông Tích hơi sửng sốt một chút, có phần tức giận hỏi:
- Tại sao Phan Mỹ nhát gan đến thế? Ông ta cũng là một đại tướng của Đại Tống, lại còn có vô số danh tướng diệt quốc như Tào Bân thể hiện thiếu bản lĩnh như thế, bọn họ coi như là dùng đầu ngón chân cũng không nên đánh trận hèn nhát như thế, lẽ nào hơn mười năm đánh giặc, bọn họ đã biến chất rồi hay sao?
- Theo những kết luận từ triều đình, thì Tào Bân là kẻ chủ mưu gây nên thất bại trong cuộc Bắc phạt này.
Trần Khác vẫn lẩm bẩm như cũ nói:
- Tội danh của gã chính là làm trái với thánh chỉ của hoàng thượng, tự tiện hành động, khiến cho chiến cuộc bị nghịch chuyển. Lẽ ra tội danh này ở bất kì triều đại nào cũng bị khép vào tội chết, không chu di cửu tộc là hoàng ân to lớn lắm rồi. Nhưng hoàng đế Thái Tông đối với gã rất tốt, đành phải nhún nhường, không ngờ chỉ giáng chức gã, chức vụ mà gã đảm nhiệm lúc đó cũng không có thay đổi lớn. Phan Mỹ và các tướng lĩnh khác cũng như vậy, mọi người đều bị phạt, nhưng cũng chỉ bị giáng chức bình thường thôi.
Ngừng một lúc, hắn thản nhiên nói:
- Kì lạ hơn là, chỉ có một năm, Tào Bân chưa lập được công tích gì nhưng đã được nâng cấp làm Thị Trung, Tiết Độ Sứ quân Võ Ninh, sau đó hoàn toàn được khôi phục chức quan mà trước kia gã giữ trong cuộc chiến Ung Hi Bắc phạt. Lâu sau đó, gã lại được thăng chức làm Tiết Độ Sứ Bình Lư Quân. Đến thời của tiên đế, lại leo lên làm Kiểm Giáo Thái sư, cùng Bình Chương Sự là những đại thần trụ cột của triều đình, càng ngày càng mở mày mở mặt hơn so với lúc chiến tranh Bắc phạt thất bại.
- Ngươi rốt cục có ý gì?
Triệu Tông Tích có ngốc cũng thấy được những ngụ ý của Trần Khác. Y không hỏi căm tức nói:
- Ý ngươi nói, nghĩa là lịch sử đều bị bóp méo, sự thật không phải như thế, đúng không?
Kỳ thực Triệu Tông Tích cũng sớm đã nghĩ mà không ra. Tại sao tang sư nhục quốc, những tướng sĩ bại trận, bình yên vô sự không nói làm gì, nhưng lại được hưởng vinh quang phú quý, giữ chức vị cao trong triều. Hơn nữa năm tháng sau này, con gái, cháu gái gã còn có thể trở thành hoàng hậu, mẫu nhi thiên hạ của Đại Tống.
Dựa vào cái gì? Họ xứng đáng sao? Triệu Tông Tích nghĩ mãi không ra…
- Nói đến đây rồi, ngươi hãy nói cho ta biết rõ chân tướng sự việc!
Trở về dịch quán, Triệu Tông Tích vẫn không buông tha những ấp úng của Trần Khác.
- Ta không biết sự thật nào cả.
Trần Khác giơ hai tay tỏ vẻ bất lực nói:
- Quyển sách mà ta xem cũng chỉ là những tư liệu sử do các triều đình ghi lại.
Hắn ngập ngừng một chút rồi nói:
- Cuốn “Đại Tống thực lục”, ngươi nhất định đã đọc rồi?
- Ừ.
Triệu Tông Tích gật đầu.
- Còn nhớ rõ trong thời gian xảy ra chiến tranh Ung Hi Bắc phạt, có lời bàn của Thái Tông về Tào Bân chứ?
Triệu Tông Tích lắc đầu, trên đời này còn có mấy người, có trí nhớ siêu phàm như Trần Khác?
- Trong Thực Lục nói, khi Tào Bân có những bước tiến mạnh trong thời kì đầu của cuộc chiến tranh, Thái Tông “Kinh ngạc vô cùng”, khi Tào Bân vì lương thực hết mà lui quân, Thái Tông vô cùng kinh sợ “nhỡ có quân địch ở phía trước, hơn nữa lui binh để vận chuyển lương thực ư?”. Mà đợi đến khi Tào Bân tiến công, người lại hạ lệnh “dù thế nào cũng đừng nóng vội mà tiến về phía trước, phải hợp lực Mễ Tín…”
Trần Khác chậm rãi nói:
- Ngươi có ấn tượng gì chưa?
- Ừ.
Triệu Tông Tích gật đầu.
- Ngươi nghĩ như thế nào về đoạn này?
- Thái Tông anh minh hơn người, người đoán nhận được tất cả các tiên cơ, những nguyên nhân thất bại người đều tính đến cả rồi. Chỉ là Tào Bân làm trái với thánh chỉ, cho nên cuối cùng mới dẫn đến thất bại.
Triệu Tông Tích như đọc từ trong sách ra nói:
- Các sư phụ chẳng phải đã dạy như thế sao.
- Ngoại trừ lần này thì sao?
- …
Triệu Tông Tích suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Hẳn phải có người chỉ trích hành động của đám bọn Tào Bân kia. Lúc nào cũng phải báo cáo trước tiên cho quan gia ở đó!
Ngừng một lát, y lại nói tiếp:
- Ngươi nói tới Giám quân sao?
- Đúng. Chỉ có giám quân mới có tư cách nắm vững tình hình quân sự đã xảy ra. Và phải vận dụng những phương thức nhanh nhất để có thể báo cáo lên hoàng đế. Hoàng đế lại thông qua mỗi một giám quân, để bất cứ lúc nào có thể giám sát các tướng quân của người.
Trần Khác trầm giọng nói:
- Mà quyền lực trong tay giám quân tỉ lệ nghịch với mức độ tín nhiệm của hoàng đế đối với các tướng sĩ của mình!
- …
Trống kêu không cần đến trọng chùy, nói chuyện với người thông minh chính là có được lợi thế này. Triệu Tông Tích đã hiểu ý của Trần Khác. Bơi vì sự không tín nhiệm của hoàng đế Thái Tông đối với các tướng sĩ của mình, đã dung túng tính kiêu ngạo của các giám quân. Những bọn thiếu hụt kinh nghiệm nghiêm trọng này đều là những người cũ ẩn náu được đề bạt lên sau khi Thái Tông hoàng đế đăng cơ. Bọn họ ỷ vào là tâm phúc của hoàng thượng ra uy xúc phậm các tướng sĩ, trở thành người người phát động mệnh lệnh trên thực tế.
Cảnh ngộ của Dương lão lệnh công chính là một ví dụ tiêu biểu nhất. Trong tấn bi kịch của Dương lão lệnh công, người thật sự nắm quyền lực chính là giám quân Vương Sân, còn người làm chủ soái và phó soái như Dương Nghiệp và Phan Mỹ chỉ có thể nghe theo sự bài bố của y.
Hơn nữa, bi kịch của Dương Nghiệp không phải là một ngoại lệ. Trên thực tế, từ trước đến giờ đã nảy sinh vài chuyện tương tự như vậy. Trong đó bi kịch lớn thứ năm trong Đại Tống thuộc về võ tướng Quách Tiến, ông đã bị bức tới mức phải tự sát, đây chính là kết cục của những ai dám đối đầu với giám quân!
Cho nên Dương Nghiệp biết rõ, nếu tự ý kháng lệnh, thì một kết cục bi thảm hơn đang chờ đợi ông. Kẻ tiểu nhân để có được sự tín nhiệm của hoàng đế, sẽ có rất nhiều cách để đẩy ông đến bước đường tử.
Mà Phan Mỹ cũng biết rõ điều này, gã không thể không phục tùng Vương Sân, bằng không kết cục của Quách Tiến cũng chính là kết cục của gã…
Cho nên lúc phán xử tội công, Phan Mỹ chỉ bị giáng chức, còn Vương Sâm bị đi đày, có thể thấy triều đình cũng biết rất rõ, đó là trách nhiệm chủ yếu của ai. Chỉ có điều so với Phan Mỹ, thì danh tiếng của Vương Sâm thật sự quá nhỏ, cho nên tiếng xấu muôn đời một mình Phan Mỹ gánh chịu hết.
Hiểu rõ điều này, lại nhìn thấy sự đãi ngộ khác thường của Tào Bân, lập tức rút ra một kết luận vô cùng chuẩn xác –gã là người gánh tội cho một người nào đó! Nếu không Triệu Quang Nghĩa vì sao không truy cứu gã? Trái lại cho gã địa vị và vinh dự cao, còn chọn con gái gã làm con dâu của mình nữa.
Rất dễ nhận thấy, đây là sự bồi thường cho gã. Bồi thường cho danh tiếng anh hùng một đời mà gã đã vứt bỏ, đền bù những tiếng xấu mà gã phải gánh chịu sau này…
Như vậy Thái Tông hoàng đế đang vì ai mà phải trả nợ?
Không cần đoán, chỉ cần so sánh một chút, nếu Phan Mỹ cùng với Tào Bân có thể gọi là “Đại Tống song bích”, thì bất luận nhìn từ góc độ nào, tội của Phan Mỹ cũng nhẹ hơn rất nhiều so với Tào Bân, nhưng Phan Mỹ từ sau chuyện này đã thất bại hoàn toàn, cuối cùng cũng đã chết già ở biên cương, vãn cảnh vô cùng thê lương.
Đương nhiên gã đáng bị trừng phạt như thế - cho dù giám quân có làm mạnh tới đâu, thì gã mới là chủ soái, quyền ra lệnh mới nằm trong tay gã. Tại sao lại nghe gã hoa chân múa tay như vậy chứ? Cho nên tội danh “Nhát gan ích kỉ, không làm tròn bổn phận”, như thế nào gã cũng không thoát được.
Cho nên ít nhất trong lòng Thái Tông, Tào Bân nhất định là kẻ có tội mà không có công. Đây chỉ có một khả năng, đó là vị “giám quân” của Tào Bân rất đặc biệt! Người đó chính là bản nhân của hoàng đế…
Cũng chỉ có mệnh lệnh của hoàng đế mới có thể phải phục tùng vô điều kiện. Cũng chỉ có tiếng xấu của Hoàng đế mới xứng đáng để đổi lại vị trí quân nhân đứng đầu Đại Tống này, mới đáng để gã hi sinh cả một đời danh tiếng lẫy lừng… bất kể trong cuộc chiến nào cũng phải “Hình trận đồ, quy miếu thắng, tuân thủ đúng kỷ luật, hạn chế ích lợi, thi hành theo đúng mệnh lệnh của chủ soái, đôn đốc quan sát các quý thần.” đây là những gia pháp của tổ tông nhà Tống.
Là do sự chỉ huy mù quáng của hoàng đế, nên đã dẫn đến những thất bại trong cuộc chiến tranh bắc phạt, là vì không khống chế được sự lộng quyền của giám quân, nên đã giết chết Dương Nghiệp. Đây cũng là câu trả lời của Trần Khác đối với Triệu Tông Tích.
Ở quốc gia mà coi tổ tông còn nặng hơn cả hoàng đế này, muốn chỉ trích tổ tông người khác, chỉ có dùng phương thức này, lại còn phải có quan hệ thân thiết mới có thể khiến đối phương nghe theo.
Đối với Trần Khác, nói ra những lời này thật không có chút lợi ích nào cho hắn. Động cơ duy nhất của hắn là nếu thật sự trong tương lai Triệu Tông Tích có ngày như vậy thì có lẽ có thể thay đổi hai thói quen xấu này của Đại Tống, đem lại chút niềm tin và lấy lại quyền chỉ huy cho văn võ bá quan. Bằng không, việc quân của Đại tống không thể cứu vãn nổi… cho dù không có Kim quốc cũng sẽ có Ngân quốc, Đồng quốc tới tiêu diệt nó.