Nhất Phẩm Giang Sơn

Chương 263 : Đá cầu

Ngày đăng: 01:21 20/04/20


Mùi hương hoa cỏ ngập tràn khắp nơi, từng ô cỏ mọc xanh mơn mởn, một mùa xuân nữa đã về.



Trên khu vực giảng kinh bằng phẳng của Hạ tự Trung Nham Tự, đang diễn ra trận thi đấu đá cầu.



Đá cầu là một hoạt động thể thao cổ xưa, được lưu hành từ thời kỳ tiền Tần, và có rất nhiều hình thức thi đấu. Trước thời nhà Đường, là hình thức đá cầu có tính đối kháng mạnh với hai khung thành, các thành viên trong đội giữ các vị trí khác nhau, liên kết thành một mảnh trên sân cầu, cầu đến chỗ nào thì “người ngã ngựa nhào”, mặt mũi tím bầm, thậm chí gãy chân cũng không có gì là lạ. Ngoài ra còn có loại chỉ có một khung thành tương đối nho nhã, hình thức chơi này chỉ giành cho những văn nhân tri thức và phái nữ chơi.



Hay nói một cách khác thì môn đá cầu có hai khung thành lúc đó là tiền thân của môn bóng đá sau này, nhưng tính đối kháng thì vượt qua môn bóng bầu dục. Còn đối với trận đấu khung thành đơn, thì các quy tắc gần giống như bóng chuyền, kỹ thuật thì tương tự như cầu mây, cách ghi điểm lại giống như môn bóng rổ.



Đến thời nhà Tống, đá cầu phát triển trở thành môn thể thao vua trong nước, được mệnh danh là “nhược luận phong lưu, vô quá thích cầu”, (ý là lả lướt như gió mà cũng không bằng đá cầu), có thể đá cầu tốt được coi như là việc vinh quang nhất, có thể diện nhất. Thành phần tham gia vào trận đấu không chỉ là quân tốt và giới quý tộc võ dũng được tôn kính, mà còn là hoàng đế vương công, thậm chí là toàn thể dân chúng. Đặc biệt là văn nhân tri thức, khiến tính thể thao và tính biểu diễn của trận đấu ngày càng thay thế được tính đối kháng và tính quân sự trước đó. Hình thức đá cầu song môn không còn được ưa chuộng, mà thay vào đó là hình thức này, đó là môn “Trúc cầu” của khung thành đơn và môn “Bạch đả” không có cầu môn.



Lúc này ở thư viện Trung Nham Tự đang tổ chức thi đấu Trúc cầu.



Môn thể thao này phát triển cho tới nay, đã hình thành các quy tắc và luật lệ vô cùng thành thục. Trước trận đấu, người ta sẽ dùng vôi trắng vẽ một hình chữ nhật dài 10 trượng, có chiều rộng 5 trượng trên nền một khoảnh đất trống, rồi lại kẻ một đường trung tuyến phân thành hai nửa sân cho mỗi đội. Tại trung điểm của đường trung tuyến có dựng hai cây sào dài hơn hai trượng, trên cây sào có treo một giỏ lưới có đường kính là một thước, nó được gọi với cái tên rất hoa mỹ là “phong lưu nhãn”, hai đội tham gia trận đấu chỉ cần đá cầu vào đúng giỏ “phong lưu nhãn” là được tính điểm.



Trận đấu phân ra làm hai đội, một đội được gọi là đội cánh tả, đội kia là cánh hữu, khi hai đội phân chia cao thấp, không được vượt ranh giới. Đội cánh tả tổng cộng có bảy người, các thành viên trong đội phân công rõ ràng, có cầu đầu, khiêu cầu, chính hiệp, đầu hiệp, tả can võng, hữu can võng, tán lập, tất cả đều mặc quần, mặc áo gấm màu đỏ, đi giày da trâu, trong đó cầu đầu sẽ đội một cái khăn vấn dài buông thõng, còn lại mọi người đội khăn vấn tròn. Đội cánh hữu cũng y như thế, nhưng tất cả thành viên lại mặc áo màu xanh, để phân biệt với đội cánh tả.



Trên sân còn có ba trọng tài, gọi là “ xã ti”, bên ngoài sân, đều có huấn luyện viên của mỗi đội, được gọi là “bố thự”, “giáo chính”. Như thế trận đấu chính thức bắt đầu, ngoài ra không thể thiếu đội cổ động viên. Khi trận đấu vẫn chưa bắt đầu, cổ động viên của hai đội sẽ bắt đầu hò hét cổ vũ tinh thần, tiếp thêm sức mạnh cho đội mình, so với các cuộc thi thể thao đời sau cũng không có bất cứ điểm khác nào.



….



Trận đấu này, là trận thi đấu đối kháng mỗi năm tổ chức một lần giữa “Thượng Tam Ban” và “ Hạ Tam Ban”, do đó không nghi ngờ gì nữa nó tự nhiên trở thành trận cầu tiêu điểm của thư viện. Không chỉ hấp dẫn các thầy trò trong toàn viện, mà ngay cả các vương tôn công tử, các tiểu thư đài các ít xuất hiện cũng bị nó thu hút, đến cả Tô Tiểu Muội được học sinh trong trường cho là tinh quái cũng đến xem.


Nếu ở vào vị trí chưa thuận lợi, Tam Lang cũng có thể dốc hết sức tạo một đường bóng hết sức khó khăn cho đối phương.



Hai vị thống lĩnh này của đội Thượng Tam Ban đều phô hết ra toàn bộ kỹ năng, khiến đối phương hoang mang mà giành chiến thắng. Hai bên đều có những tuyệt chiêu cho riêng mình, nào là “Yến song phi”, “Người què đá”, “Móc câu vàng”,... động tác tự nhiên phóng khoáng, tạo được mỹ cảm cho người xem.



Quả cầu da bay qua bay lại, mãi không rơi xuống đất. Khán giả không kịp theo dõi, tiếng hò hét lại vang lên mỗi khi đội mình có những pha cầu đẹp mắt, rồi tiếng reo hò tán thưởng mỗi lần dẫn bóng, tiếng thở dài hụt hẫng mỗi khi sút cầu không trúng, đều tiếp thêm sức mạnh cho mỗi thành viên trong đội sau mỗi lần mắc lỗi.



Trên sân, dưới sân không khí vô cùng náo nhiệt như nhau, khiến cho mỗi người say mê đến cuồng dại.



Thấm thoắt sợi hương cũng đã tàn, tiếng chiêng ngân lên báo hiệu hương đã hết, hiệp đầu của trận đấu cũng đã kết thúc.



Mọi người mới tới xem bảng ghi điểm, hai đội đều được bảy gạch, không ngờ hai đội lại hòa nhau, không phân cao thấp!



Mặc dù không trực tiếp đối đầu, nhưng trận thi đấu vô cùng kịch tính, công sức thi đấu của các thành viên hai đội bỏ ra cũng không phí chút nào.



Trên sân có 14 cầu thủ, tất cả đều mồ hôi đầm đìa, ướt đẫm cả người, chống hai tay vào sườn thở dốc, nhưng ánh mắt vẫn đằng đằng sát khí, chỉ chờ rời khỏi trận đấu là có thể đánh tan đối phương.



Nhưng lúc này vẫn nhanh chóng rời sân, tận dụng thời gian để nghỉ ngơi.



Thước đời Tống so với đời sau nhỏ hơn 1 thước, bằng 30,7 cm, hơn 6 thước chính là cao khoảng 1m83, ở thời Tống coi như hạc đứng giữa bầy gà. (ý nói có chiều cao nổi trội nhất).