Ở Rể (Chuế Tế)
Chương 372 : Tâm nguyện thiên hạ đại đồng (thượng) (1)
Ngày đăng: 14:58 30/04/20
Triều Vũ bên này ngay từ đầu đã luôn tranh thủ liên lạc với Oán Quân của Quách Dược Sư, đặc biệt là Tần Tự Nguyên. Ông ta biết quân đội của triều Vũ thực lực không đủ đánh chính diện nên khiến Mật Trinh Ti xuất ra rất nhiều sức lực, dùng đủ các loại phương pháp khác nhau. Lần này đối với Mật Trinh Ti mà nói chính là một hồi đại thắng … Tin tức Quách Dược Sư và Thường Thắng Quân quy hàng truyền khắp toàn thành. Trong hai ngày này ở thành Biện Lương, đây đã trở thành đề tài câu chuyện tiêu điểm của mọi người trong lúc trà dư tửu hậu, đồng thời khi thúc đẩy chứng thực việc này, những người thuộc tầng đỉnh kim tự tháp của triều Vũ cũng đang cảm thụ được sự vui sướng của thành quả thắng lợi.
Gần một năm nay, người Kim tấn công hung mãnh, đã hạ gần một nửa đất đai của nước Liêu. Cứ tiếp tục như vậy, gần như có thể nói là đã đập vang tiếng chuông tang của nước Liêu. Trong triều Vũ, có nhiều kẻ thờ phụng đạo lý "Đắc đạo đa trợ thất đạo quả trợ
- Nhà cai trị biết theo chính đạo chính nghĩa thì được đa số dân chúng ủng hộ, còn kẻ bỏ mất chính nghĩa thì số người giúp đỡ rất là hiếm hoi", lúc này lôi kéo được Thường Thắng Quân tới liền coi đây là bằng chứng tốt nhất của đạo lý này.
Từ khi mới bắt đầu khai chiến, thế lực chủ chiến trong triều đình đã có khuynh hướng tương đối nghiêm trọng, nhưng vẫn còn một bộ phận người theo phái chủ hòa.
Mà trong phái chủ chiến cũng không phải là đoàn kết thành một khối, sau tình thế chiến cuộc liên tiếp bại trận, dần dần chia làm hai đám. Một đám yêu cầu quân đội ở tiền phương phải chiến đấu hăng hái để chiến thắng, phải thể hiện thực lực của chính mình, sau này mới dễ nói chuyện trong lúc đàm phán với người Kim. Một đám khác thì bởi vì liên tục chiến bại, liền bắt đầu cổ xúy bên ta phải bảo tồn thực lực, phải vận dụng binh pháp, ngồi chờ nhìn hai hổ đấu nhau, chờ đến khi cả Kim và Liêu đều bị thương, mới thuận thế được lợi.
Ngay từ đầu thì đã có cả hai cách nói nhưng chỉ có điều sau chiến cuộc biến hóa mới trở nên rõ ràng tách biệt nhau ra. Nhưng bất kể như thế nào, điểm mấu chốt của phái chủ chiến vẫn là phải thu phục U Châu, Yến Châu, ít nhất không thể khiến phái chủ hòa chiếm thượng phong. Khi tin Thường Thắng Quân quy hàng được xác định, tiếng hô của phe chủ hòa vẫn chiếm thượng phong. Lúc này phương bắc án binh bất động, Đồng Quán dẫn Cấm quân lên phía bắc, vẫn chưa khai chiến một lần nữa thì Quách Dược Sư đã đầu hàng, chính là phù hợp với vương đạo của Thiên triều thượng quốc. Đối với đại bộ phận mọi người mà nói, đây là dấu hiệu hưng thịnh lên của triều Vũ.
Tiếng hô nhiệt liệt, mọi người đồng lòng, mà các phương thức để chúc mừng lúc này đương nhiên chính là các loại yến hội, tụ hội. Hai ngày này, trong thành Biện Lương có đủ các loại tụ hội khiến các thương gia đều phát tài. Các thanh lâu, quán ăn cũng thu nhập tăng vọt. Mấy hội văn thơ cũng tiến hành rất sinh động. Ở Tĩnh Tư Viên, một vị tài tử tên là Vu Thiếu Nguyên đã sáng tác bài Vương Đạo Phú, được bầu là tác phẩm lớn hiếm có trong gần trăm năm nay. Có phong cách thời Đường, văn chương theo thể tứ lục (1), lưu loát thuyết minh tính tất yếu gây dựng lại thịnh thế của triều Vũ. Tài văn chương khiến mọi người đọc đều phải than thở khen ngợi không thôi.
Văn đạo hưng thịnh đương nhiên cũng có thể xem như biểu hiện của thế vận hưng thịnh, mọi người cũng sẽ không ai dị nghị điều này. Sau khi làm ra Vương Đạo Phú, vị Vu Thiếu Nguyên này lại được hoa khôi của kinh thành là Cơ Vãn Tình ưu ái.
Trong hai ngày này, chuyện này trở thành giai thoại lan truyền trong kinh thành. Y đã mơ hồ có xu thế sánh vai với tứ đại tài tử kinh sư là Chu Bang Ngạn, Trịnh Thúc Hòa, Vương Nguyên Thế và Tạ Đạo Tam.
Những việc thế này là phong cách lưu hành nhất ở thời đại này, mặc kệ ở đâu cũng đều không thể bỏ qua được. Chiều nay, trong Hữu tướng phủ (phủ Hữu thừa tướng) cũng có mấy người cầm Vương Đạo Phú truyền đọc và nghị luận. Đây là đông viện của Hữu tướng phủ, rất gần với thư phòng mà Tần Tự Nguyên luôn luôn làm việc. Trong phòng có rất nhiều sổ sách, công văn, cũng chứng minh mấy người này đều là phụ tá hoặc sư gia tín nhiệm của Tần Tự Nguyên. Trong đó có một người là hòa thượng trung niên bộ dạng anh tuấn. Ba người còn lại thì phân biệt là bộ dạng khoảng ba mươi tuổi, bốn mươi tuổi và năm mươi tuổi. Khí chất của ba người đều thành thục, điềm đạm, chắc chắn nhưng tuổi thì như thể viết rõ trên mặt, vừa nhìn khiến người ta đã có cảm giác như vậy.
- Lưu loát, đầy vẻ tự nhiên, phóng khoáng. Đây là bài văn được xưng là tài văn ngút trời của Vu Thiếu Nguyên … Năm nay mới chỉ khoảng hai mươi nhỉ. Nhưng thật ra khiến ta nhớ tới Vương Tử An …
Người vừa đọc xong bài phú liền nói chính là lão già khoảng năm mươi tuổi, vừa nói vừa gật đầu tán thưởng. Vương Tử An mà lão nói chính là Vương Bột trong Sơ Đường Tứ Kiệt (2) đã viết nên Đằng Vương Các Tự (3). Có thể làm phụ tá trong Hữu tướng phủ đều là hạng người có tài văn chương cao siêu. Vị lão nhân này có thể đem Vu Thiếu Nguyên so với Vương Tử An, đủ để chứng minh thành tựu của y.
Tuy nhiên sau khi nói như vậy, lão lập tức nhận được phản bác không đồng ý của người bên cạnh. Nam tử hơn ba mươi tuổi đang dựa vào bàn viết ở cách đó không xa nhíu mày, nói:
- Tài văn chương là tốt nhưng chỉ có điều hơi than thở, lập luận không đủ chắc.
Nếu chỉ có vương đạo chính khí đã có thể hưng quốc an bang … Ừ, tuy rằng cũng không phải là không hề có đạo lý, nhưng cứ như vậy thì, … Niên Công, chúng ta đang làm cái gì?
- Y mới hơn hai mươi, có tài văn chương là đủ rồi. Huống chi hưng quốc an bang vốn cũng nên lấy vương đạo là việc chính. Nói như vậy cũng không sai, ha ha … Chu Hải ngươi cần gì phải để ý.
Lão già được gọi là Niên Công cười cười.
Hòa thượng đang ngồi uống trà trước cửa sổ bên kia ngẩng đầu lên, nói:
- Nếu xét về tài văn chương có lẽ có thể sánh vai với Chu Mỹ Thành, tuy nhiên … Sợ là vẫn không thể so sánh với người sáng tác "Nhất dạ ngư long vũ" (4) đang tới đây nhỉ …
- Đó là dị nhân, không cần lấy ra so sánh.
Nam tử hơn ba mươi tuổi nói. Hòa thượng bên cửa sổ cười ha hả, gật đầu.
Trong mấy người này, người đàn ông trung niên khoảng bốn mươi tuổi có bộ dạng đôn hậu nhưng xem ra lại tương đối trầm mặc ít lời, mặc dù cũng nghe mấy người nói chuyện nhưng vẫn không tham dự vào. Thế nhưng nếu đưa ra bên ngoài, mấy người ngồi đây cũng đều có chút danh tiếng, thậm chí ở không ít địa phương còn có thể dọa người.
Lão già họ Nghiêu được xưng là Niên Công tên là Nghiêu Tổ Niên, khi còn trẻ từng là phụ tá của Tần Tự Nguyên. Lão có học thức uyên bác, tuy rằng lúc trước vẫn đi theo Tần Tự Nguyên nhưng trong quan trường và văn đàn đều có danh tiếng khá lớn. Sau khi Tần Tự Nguyên từ quan, ông vốn vẫn có thể cho lão một tiền đồ, thậm chí bản thân danh tiếng của lão cũng đủ để đi theo bất cứ kẻ nào, nhưng kể từ sau Hắc Thủy Chi Minh (hòa ước Hắc Thủy) (5) thì tâm tư công danh lợi lộc của lão đã phai nhạt. Lần này chỉ khi Tần Tự Nguyên phục chức, lão mới trở lại đây hỗ trợ làm việc.
Đã để trôi qua lúc mặt trời mọc ở phương đông, nhưng khi bóng lặn khóm tang du, phải đâu đã muộn.
Mạnh Thường thanh cao, vẫn mang tấm lòng báo quốc.
Nguyễn Tịch rồ dại, há bắt chước tiếng khóc đường cùng.
Bột này là đứa nhỏ cao ba thước, một gã học trò.
Không có đường xin dải dây dài, như tuổi niên thiếu của Chung Quân.
Nhưng có hoài bão vứt cây bút, yêu mến cơn gió dài của Tông Xác.
Bỏ rơi trâm hốt ở trăm năm; theo việc thần hôn ngoài vạn dặm.
Tuy không phải là cây báu nhà họ Tạ; nhưng được ở gần hàng xóm tốt của họ Mạnh.
Ngày sau, tôi sẽ rảo bước trước sân, lạm phụ thêm lời đối đáp của ông Lý.
Sớm nay, nâng tay áo, vui mừng được gửi gắm họ tên tại cổng rồng.
Không còn được gặp Dương Ý, nên đọc thiên lăng vân mà tự tiếc.
Nhưng đã gặp Chung Kỳ, thì tấu khúc lưu thuỷ có hổ thẹn gì.
Than ôi! Chốn danh thắng chẳng thường tồn tại; bữa tiệc lớn khó gặp hai lần.
Lan Đình còn đâu nữa, Tử Trạch thành gò hoang.
Hân hạnh được thừa ân Diêm công trong bữa tiệc vĩ đại này, tôi viết lời tặng khi lâm biệt.
Còn như lên cao làm phú, đó là việc mong mỏi nơi các ông.
Xin dốc lòng thành quê kệch; cung kính làm bài tự ngắn.
Trước ngỏ một lời, sau bày tình ý; đồng thời bốn vận đều xong.
Mời rảy nước sông Phan, cùng làm cho nghiêng mây trong đất liền lẫn mây ngoài biển vậy.
Bên sông, đây gác Đằng Vương.
Múa ca đã tắt, ngọc vàng nào ai ? Cột rồng Nam Phố mây bay.
Rèm châu mưa cuốn ngàn Tây, sớm chiều.
In đầm, mây vẩn vơ trôi.
Tang thương vật đổi, sao dời mấy thâu.
Đằng vương trong gác giờ đâu ? Trường Giang nước vẫn chảy mau mé ngoài.
Con vua Đường Cao Tổ là Nguyên Anh được phong là Đằng Vương, xây cất gác này khi nhận chức thứ sử tại Hồng Châu. Năm Hàm Thuần thứ hai, thứ sử Hồng Châu là Diêm Bá Tự mở đại yến ở đây, sai con rể là Ngô Tử Chương chuẩn bị trước một bài tự để mang ra khoe với tân khách. Trong bữa tiệc, họ Diêm sai đem giấy bút ra mời khách làm văn, nhưng không ai dám nhận. Duy có Vương Bột không từ chối.
Họ Diêm sai người ngó bài của Vương Bột. Khi được nghe đến câu "Lạc hà dữ cô vụ tề phi" thì thán phục, khen là thiên tài, bèn thỉnh cầu Vương Bột tiếp tục hoàn thành bài tự.
Nguồn: Hán văn - Trần Trọng San
4. Nhất dạ ngư long vũ: Một câu trong bài "Thanh Ngọc Án" của Tân Khí Tật.
Mời các bạn xem lại chú giải của các chương trước hoặc tìm trên Google.
5. Hắc Thủy Chi Minh - hòa ước Hắc Thủy: Theo suy luận của dịch giả thì đây chính là Hòa ước Thiền Uyên.
Nếu theo đúng tiến trình lịch sử thì Hòa ước Thiền Uyên diễn ra ở triều Tống.
Mà Ninh Nghị xuyên việt tới triều Vũ cũng tương đương với niên đại của triều Tống trong thực tế. Các nhân vật của triều Vũ cũng chính là người của triều Tống trong thực tế. Có lẽ tác giả sửa Hòa ước Thiền Uyên thành Hòa ước Hắc Thủy để phù hợp với tình tiết trong truyện.
Về Hòa ước Thiền Uyên, mời các bạn tìm hiểu thêm bằng Google.