Ở Rể (Chuế Tế)

Chương 1 : Thư viện Dự Sơn

Ngày đăng: 14:53 30/04/20


Ngay khi Tần lão cho rằng, gã có vài phần tài năng như vậy mà đi ở rể nhà thương nhân, thiếu chí hướng thật là đáng tiếc, Ninh Nghị đã đón nắng sớm trong lành tiến vào thư viện Dự Sơn, gã dự định dành trọn buổi sáng để chuẩn bị cho đám nhỏ học Luận Ngữ.



Thư viện Dự Sơn không phải được mở ở nơi có tên là Dự Sơn, mà nó là học đường riêng của nhà họ Tô. Nó thường thu nhận những người có quan hệ với gia tộc, nhưng học đường không tính là lớn vì người tới học cũng không nhiều. Dự Sơn là tên một ngọn núi ở quê nhà họ Tô.



Thư viện Dự Sơn nằm cách Tô phủ không xa, chỉ bằng một con đường không ồn ào náo nhiệt. Khung cảnh nơi đây khá đẹp và yên tĩnh, tường trắng ngói xám vây quanh, một phiến rừng trúc nhỏ, một cái bảng hiệu “Thư viện Dự Sơn” do một vị đại nho nào đó được mời viết cũng làm nơi đây có thêm vài phần không khí đèn sách.



Toàn thư viện tổng cộng có bốn mươi chín học sinh, bảy lão sư bao gồm cả thư viện trưởng Tô Sùng Hoa. Theo tỷ lệ mà nói thì có thể thấy lực lượng giáo viên khá hùng hậu. Tô Sùng Hoa cũng chính là người của Tô gia, từ nhỏ đã đậu cử nhân, ra làm quan mấy năm nhưng không có thành tích gì, thậm chí còn có lời đồn y phạm phải mấy chuyện không tốt, ngoài ra còn có hai vị lão sư đã từng làm quan dùng lương cao mời tới. Ngoài lão sư và học sinh còn có mấy nữ đầu bếp và người hầu, tạp dịch.



Tô gia đã đầu tư rất nhiều cho thư viện này, nhưng hoặc bởi các lão sư đều không đáng tin cậy, hoặc do tư chất đám học sinh đều ngu dốt nên thư viện vẫn mãi chưa tạo dựng được thành tích gì. Một số học sinh trước khi học xong nhận thấy mình vô vọng với khoa cử, hầu hết đều gia nhập các cửa hàng nhà họ Tô, bởi vậy thoạt nhìn cái thư viện này như một học viện kỹ thuật. Nếu trong nhà có đứa nhỏ có khả năng đi theo con đường làm quan, phần lớn sẽ chuyển đến học viện tốt hơn trước mười hai tuổi.



Ninh Nghị giảng dạy ở đây đã được ba ngày, Tô Sùng Hoa đối xử với gã khá tốt, không bởi cái thân phận ở rể mà làm khó dễ gì gã. Kẻ đã lăn lộn rất lâu trong xã hội đến mức thành tinh như lão cũng không cần phải làm mấy chuyện vớ vẩn như vậy. Cân nhắc chuyện Ninh Nghị không có chút tài học gì – tất cả mọi người đều nói như vậy – nên lão phân cho gã dạy hơn mười đứa trẻ mới nhập môn không lâu. Đám trẻ này tổng cộng có mười sáu đứa, tuổi từ sáu đến mười hai, thậm chí còn có hai tiểu cô nương tóc bím, bởi các nàng đều là thân thích của Tô gia nên cũng muốn dạy một chút chữ nghĩa. Vị thầy giáo trước đó đã dạy xong Hiếu Kinh, bây giờ chuyển sang Luận Ngữ. Lịch dạy Luận Ngữ được cố định vào buổi sáng, buổi chiều dành cho dạy lễ, nhạc, xạ, ngự, toán học các loại, toán học là chủ yếu, phần còn lại phụ thuộc vào năng lực cùng tâm tình của thầy giáo.



Ở những trường học chính quy, lịch học sẽ được lập quy củ và chi tiết hơn, nhưng hiển nhiên thư viện Dự Sơn không có được những điều kiện như vậy. Với Ninh Nghị mà nói, dạy Luận Ngữ kỳ thực là một chuyện đơn giản, tất nhiên gã không thể nhớ tất cả hay nhớ câu nào ở chính xác vị trí nào ..., nhưng nếu chỉ cần đọc và giải thích đơn giản thì quá dễ. Bất luận người hiện đại nào chỉ cần đã học lên cao và có chút thời gian nghiên cứu đều có thể giải thích về tương đối về Luận Ngữ, tất nhiên là kiểu nói tung tung không có căn cứ.



Dẫu là cổ đại thì bậc đại nho chân chính nghiên cứu tứ thư ngũ kinh vẫn rất sâu sắc, trình độ sâu không lường được, thậm chí một danh kỹ viết cổ văn cũng có thể khiến một giáo sư thời hiện đại xấu hổ. Nhưng đại đa số người đọc sách không có cơ hội tiếp xúc với trình độ giáo dục cao hơn, thường sau khi đọc xong một quyển Luận Ngữ là thôi không đọc đến sách Mạnh Tử. Tiêu chuẩn của lão sư cấp thấp còn đơn giản hơn, nói trắng ra là chỉ cần dạy người biết chữ là được. Vị lão sư tiền nhiệm trước của Ninh Nghị chính là một người như vậy. Y rung đùi gật gù dạy một đám trẻ con, nếu có thắc mắc gì sẽ giải thích hàm nghĩa cơ bản nhất của đoạn văn, rồi sau đó bắt học sinh nghiêm túc học thuộc lòng hoặc chép lại một đoạn. Đây chính là bài kiểm tra, nếu không làm được thì đánh.



Chuyện đơn giản! Ninh Nghị cũng không định cải cách nhiều, một canh giờ trước gã cho đám học sinh gật gù đọc Luận Ngữ - thực ra đọc sách liên tục hai giờ đối với Ninh Nghị là việc rất thống khổ, nhưng đám nhóc này cũng đã quen rồi. Sau hai giờ, Ninh Nghị bắt đầu giảng giải nội dung đoạn trước, rồi thuận miệng thêm thắt dẫn chứng cho phong phú, lúc kể chuyện xưa, lúc nói thực tế, coi như cho đám nhỏ này thư giãn một chút.



Đám trẻ này rất dễ dạy, tuy mới chỉ dạy ba ngày mà Ninh Nghị đã có thể cảm nhận rõ ràng cái uy của lão sư. Đám nhỏ này không hề quậy phá hay đùa nghịch, rất là đáng yêu, bọn chúng trân trọng cơ hội đi học, không nghịch ngợm không gây gỗ với nhau, nếu vì có chuyện rắc rối mà đánh sưng mông con nhà người ta cũng là chuyện bình thường, nơi đây quả thực là thiên đường của các lão sư. Ninh Nghị dạy học rất thoải mái, cả ba ngày vừa qua, mỗi ngày giảng giải kinh thư, kể chút chuyện xưa là đám trẻ này đã thỏa mãn lắm rồi, mà giảng giải những điều này Ninh Nghị thậm chí không cần chuẩn bị giáo án, cứ thế mà làm tới.



Hôm nay bắt đầu giảng Luận Ngữ tới đoạn “phú quý là ham muốn của con người..” (1) từ cách thức đạt được của cải giảng tới đạo thương nhân. Trong đó lại chen một ít thuyết pháp “Đạo của quân tử ái tài” (2) cùng một ít giải thích. Đời trước, Ninh Nghị làm nghề này, nếu chỉ dùng cổ văn để biểu đạt hay diễn giải một đoạn, gã cũng thừa đủ để đứng giảng bài cho sinh viên đại học thời hiện đại. Nhưng lúc này trước mắt là một đám nhóc tuổi chưa đến mười hai, sau khi thuận miệng nói vài câu gã bèn dừng lại, chỉ đưa vài ví dụ nhỏ để trêu chọc một phen, rồi nói đến hội thơ Bộc Viên, nhắc đến sáu thuyền hoa kết mảng, nhắc đến trận chiến Xích Bích, sau đó bắt đầu kể cho đám trẻ nhỏ câu chuyện về trận đánh Xích Bích.



Thời đại này nói đến Tam Quốc chủ yếu vẫn là “Tam Quốc Chí” của Trần Thọ. Bộ này Ninh Nghị chưa từng đọc nên gã kể về bộ Tam Quốc Diễn Nghĩa thời hiện đại, là tác phẩm văn chương thú vị được trau chuốt và tự sướng hết mười phần. Tám mươi vạn đại quân của Tào Tháo xuôi nam đến Chu Du đánh Hoàng Cái, kế liên hoàn, thuyền cỏ mượn tên,.. một đám hài tử ngày thường chưa nghe được bao nhiêu cố sự mặt đỏ bừng bừng, hưng phấn, thỉnh thoảng hô to: “Tiên sinh, tiên sinh, tiếp nữa đi..” kể được hơn nửa đám nhỏ này mới yên tĩnh lại, bởi viện trưởng Tô Sùng Hoa đã đi tới bên phòng học, mặt không biểu tình, hai tay chắp sau lưng đứng nhìn. Nhưng dù như vậy cũng không thay đổi được vẻ hưng phấn trên mặt đám nhỏ.



Ninh Nghị tiếp tục nói, dĩ nhiên không vì chuyện nhỏ này mà phân tâm, gã tiếp tục kể cho tới gần trưa mới xong đoạn hỏa thiêu đoàn thuyền. Tô Sùng Hoa vẫn đứng ở bên ngoài nghe, cũng không rõ thái độ của lão đến cùng là như thế nào. Ninh Nghị giảng xong cố sự, mới viết xuống giấy bài Xích Bích hoài cổ (3) của Đỗ Mục mà gã ưa thích:



Kích nằm trong cát sắt chưa tiêu


Nói về Nhân, Khổng Tử nói: “Giàu và sang, người ta ai cũng muốn, nhưng chẳng phải đạo mà được giàu sang thì người quân tử chẳng thèm. Nghèo và hèn, người ta ai cũng ghét, nhưng nếu chẳng phải lỗi đạo mà phải nghèo hèn thì người quân tử chẳng bỏ. Người quân tử mà bỏ đức nhân thì làm sao được gọi là quân tử? Người quân tử dù trong một bữa ăn cũng không làm trái điều nhân, dù trong lúc vội vàng cũng theo điều nhân.” (Luận Ngữ, Thiên IV, Lý Nhân)



(2) Nguyên văn “Quân tử ái tài thủ chi dĩ đạo”



(3) Nguyên văn Hán Việt Bài "Xích Bích hoài cổ" của Đỗ Mục:



Chiết kích trầm sa thiết vị tiêu,



Tự tương ma tẩy nhận tiền triêu.



Đông phong bất dữ chu lang tiện,



Đồng tước xuân thâm tỏa nhị kiều.



Dịch nghĩa:



Mũi kích gãy nằm trong cát, sắt chưa mòn hết



Tự tay mình mài rũa, đã nhận thấy dấu vết triều đại vừa qua



Nếu không có gió đông thuận tiện cho Chu Du (thì đã bị thua Tào Tháo trong trận chiến Xích bích)



Thì cảnh xuân thâm nghiêm của đài Đồng Tước đã khóa chặt hai nàng Kiều. (vì Tào Tháo rất thích cướp vợ của các tướng bại trận của mình, cũng như Điêu Thuyền của Lã Bố.. nhị Kiều là 2 chị em đánh đàn rất giỏi. 1 người lấy Chu Du và một người lấy Tôn Sách)



(4) Bản dịch thơ của Lương Cao Cường



(5) Cố Chử Tử Duẩn: một loại danh trà tiến vua nổi tiếng của vùng Thái Hồ. Trong thời bắc Tống, trà này được coi là loại cống trà tốt nhất từ thời Đường.