Percy Jackson Tập 4: Cuộc Chiến Chốn Mê Cung

Chương 2 :

Ngày đăng: 18:09 19/04/20


Không có điều gì làm kết thúc một buổi sáng tuyệt đẹp bằng việc ngồi trên một chiếc taxi đường dài với một cô gái đang giận dữ.



Tôi cố nói chuyện với Annabeth, nhưng cô ấy đang hành động như thể tôi vừa mới đấm vào người bà cô ấy vậy. Tôi nỗ lực hết mình cũng chỉ moi được ở cô ấy vài thông tin, đại loại như là: mùa xuân lúc nhúc đầy quái vật của cô ấy ở San Francisco; cô ấy đã quay trở lại trại hai lần kể từ khi Giáng sinh nhưng không nói cho tôi biết tại sao (điều này làm tôi hơi bực, vì Annabeth thậm chí còn thèm chẳng nói cho tôi là cô ấy đã ở New York); và cô ấy chẳng có thông tin gì về chỗ ở của Nico di Angelo (một câu chuyện dài).



“Có thông tin gì về Luke không?” tôi hỏi.



Cô ấy lắc đầu. Tôi biết đây là một chủ đề nhạy cảm đối với cô ấy. Annabeth đã luôn ngưỡng mộ Luke, cựu cố vấn cấp cao cho thần Hermes, người đã phản bội chúng tôi đi theo Chúa tể Kronos độc ác. Cô ấy sẽ không thừa nhận, nhưng tôi biết rằng cô ấy vẫn còn thích hắn ta. Khi chúng tôi chiến đấu với Luke trên núi Tamalpais mùa đông năm ngoái, không hiểu bằng cách nào hắn có thể sống sót khi rơi xuống từ vách đá cao mười lăm mét. Giờ đây, như tôi được biết, hắn ta vẫn đang chu du trên con thuyền lúc nhúc quái vật trong khi chờ đợi Chúa tể Kronos bị băm thành từng mảnh nhỏ của hắn tái sinh, từng chút từng chút một, trong một cái quách vàng và chờ đợi cho đến khi hắn đủ sức mạnh để thách thức với các vị thần trên đỉnh Olympus. Trong ngôn ngữ của á thần, chúng tôi gọi nó là một “rắc rối.”



“Núi Tam vẫn đầy quái vật,” Annabeth nói. “Tớ không dám lại gần, nhưng tớ không nghĩ Luke ở trên đó. Tớ nghĩ mình sẽ biết nếu anh ta ở trên đó.”



Điều đó chẳng hề làm tôi cảm thấy dễ chịu hơn. “Còn Grover thì sao?”



“Cậu ấy đang ở trại,” cô ấy nói. “Hôm nay chúng ta sẽ gặp cậu ấy.”



“Cậu ấy có gặp chút may mắn nào không? Ý tớ là, trong việc tìm kiếm thần Pan ấy?”



Annabeth sờ sờ chuỗi vòng cổ, cách cô ấy vẫn thường làm mỗi khi lo lắng.



“Cậu sẽ biết thôi,” Annabeth nói. Nhưng không giải thích gì thêm.



Khi chúng tôi đi qua Brooklyn, tôi lấy điện thoại của Annabeth gọi cho mẹ tôi. Con lai như chúng tôi cố không sử dụng điện thoại di động nếu chúng tôi có thể tránh, vì việc truyền đi tiếng nói của chúng tôi cũng tương tự việc bắn pháo sáng thông báo cho bọn quái vật rằng: Ta ở đây này! Hãy đến ăn ta đi! Nhưng tôi nghĩ cuộc điện thoại này là quan trọng. Tôi để lại một tin nhắn trên hộp thư thoại ở nhà, cố gắng giải thích chuyện đã xảy ra ở Goode. Có lẽ tôi đã làm không tốt. Tôi nói với mẹ rằng tôi ổn, bà không cần phải lo lắng, nhưng tôi sẽ ở lại trại cho đến khi mọi chuyện dịu đi. Tôi bảo bà nói với Paul Blofis rằng tôi xin lỗi.



chúng tôi đi trong im lặng. Thành phố khuất dần cho đến khi chúng tôi rời khỏi đường cao tốc và chạy qua vùng nông thôn phía bắc Long Island, qua những vườn cây ăn quả, các nhà máy rượu vang và các cửa hàng bán sản phẩm tươi.



Tôi chăm chú nhìn số điện thoại mà Rachel Elizabeth Dare đã ghi vội vào tay tôi. Tôi biết điều này là điên rồ, nhưng có gì như thôi thúc tôi phải gọi điện cho cô ấy. Có thể cô ấy sẽ giúp tôi hiểu về những điều mà empousa đã nói – việc trại bị thiêu cháy, bạn bè tôi bị bắt giữ. Và tại sao Kelli nổ tung thành lửa?



Tôi biết lũ quái vật không bao giờ thật sự chết cả. Cuối cùng – có thể sau vài tuần, vài tháng, hoặc vài năm – Kelli sẽ hồi sinh trong hình dáng nguyên thủy xấu xí của nó từ âm phủ. Tuy nhiên, lũ quái vật thường chẳng bao giờ để cho mình bị tiêu diệt một cách dễ dàng. Đó là nếu cô ta đã thật sự bị tiêu diệt.



Chiếc taxi ra khỏi tuyến đường 25A. Chúng tôi đi thẳng xuyên qua các khu rừng North Shore cho đến khi một dãy đồi thấp xuất hiện phía bên trái. Annabeth bảo người lái xe dừng xe tại số 3.141 Farm Road, dưới chân Đồi Con Lai.



Người lái xe cau mày. “Ở đây chẳng có gì cả, cô gái. Cô có chắc là cô muốn xuống xe không?”



“Vâng, đúng ạ.” Annabeth đưa cho anh ta một cuộn tiền mặt, và người lái xe quyết định không tranh luận nữa.



Annabeth và tôi đi bộ lên đỉnh đồi. Chú rồng con bảo vệ đang lơ mơ ngủ, cuộn tròn quanh cây thông, nhưng nó ngẩng cái đầu bằng đồng lên khi chúng tôi tiến đến và để Annabeth gãi gãi bên dưới cằm nó. Hơi nước kêu xì xì từ lỗ mũi của con rồng như một cái ấm nước và nó lim dim mắt đầy sung sướng.



“Chào, Peleus,” Annabeth nói. “Giữ mọi thứ an toàn chứ?”



Lần cuối cùng tôi nhìn thấy con rồng là khi nó dài gần hai mét. Bây giờ nó đã dài ít nhất là gấp đôi rồi, và to như cái cây mà nó đang cuốn quanh vậy. Trên đầu nó, ở nhánh thấp nhất của cây thông, Bộ Lông Cừu Vàng sáng lấp lánh, ma thuật của nó bảo vệ biên giới của trại khỏi bị tấn công. Con rồng dường như đang nghỉ ngơi, như thể mọi thứ đều yên ổn. Dưới kia, Trại Con Lai nhìn có vẻ yên bình – những cánh đồng cỏ, rừng cây, những tòa nhà kiểu Hy Lạp sáng trắng. Căn nhà kiểu trang trại bốn tầng mà chúng tôi gọi là Nhà Lớn tự hào nằm giữa những cánh đồng dâu tây. Về phía bắc, qua bãi biển, Long Island Sound lấp lánh dưới ánh nắng mặt trời.



Nhưng... có gì đó vẫn không ổn. Khônǵ căng thẳng, như thể ngọn đồi đang nín thở, đợi chờ điều tồi tệ xảy ra.



Chúng tôi đi xuống thung lũng và nhận ra khóa học mùa hè đang bắt đầu rất sôi nổi. Hầu hết các trại viên đã đến từ thứ Sáu tuần trước, vì thế tôi thực sự cảm nhận được điều đó. Các thần rừng đang thổi sáo trên cánh đồng dâu, khiến cho các cây dâu lớn nhanh như thổi với ma thuật của rừng sâu. Các trại viên đang theo học bài học cưỡi ngựa bay, nhào xuống từ bên trên các khu rừng bên trên lưng những con pegasus của họ. Khói bốc lên từ các lò rèn, tiếng búa kêu vang khi bọn trẻ tự tạo vũ khí của mình trong giờ học nghệ thuật và thủ công. Các đội thuộc nhà nữ thần Athena và nữ thần Demeter đang có một cuộc đua xe ngựa quanh đường đua, và phía xa xa ở hồ chứa xuồng, một vài đứa trẻ trên một tàu chiến cổ ba tầng Hy Lạp đang chiến đấu với một con rắn biển lớn màu da cam. Một ngày đặc trưng ở trại.



“Tớ cần nói chuyện với Clarisse,” Annabeth nói.



Tôi nhìn cô ấy chăm chú như thể cô ấy vừa mới nói Tớ cần ăn một chiếc giày ống lớn bốc mùi vậy. “Để làm gì?”



Clarisse ở nhà thần Ares là một trong những người tôi ít ưa nhất. Cô ta là một kẻ hay bắt nạt vô ơn và hèn hạ. Cha cô ta, thần chiến tranh, luôn muốn giết tôi. Còn cô ta lúc nào cũng muốn đánh tôi nhừ tử mới thôi. Ngoài những điều đó, cô ta thật tuyệt.



“Chúng tớ đang làm dở một số việc,” Annabeth nói. “Tớ sẽ gặp cậu sau.”



“Làm việc gì?”



Annabeth nhìn về phía cánh rừng.



“Tớ sẽ nói với bác Chiron là cậu đã đến,” cô ấy nói. “Chắc bác ấy sẽ muốn nói với cậu trước khi nghe được.”



“Nghe cái gì?”



Nhưng cô ấy đã chạy chầm chậm xuống con đường dẫn đến khu vực bắn cung mà không thèm nhìn lại.



“Ừ,” tôi thì thầm. “Tớ cũng rất vui được nói chuyện với cậu.”



Trên đường đi băng qua trại, tôi chào hỏi một vài người bạn. Trên đường lái xe vào Nhà Lớn, Connor và Travis Stoll thuộc nhà thần Hermes đang đấu dây khởi động chiếc SUV của trại. Silena Beauregard, cố vấn trưởng của khu nhà nữ thần Aphrodite vẫy tay chào tôi từ trên lưng ngựa khi cô ấy bay qua. Tôi tìm kiếm Grover, nhưng không thấy cậu ấy đâu cả. Cuối cùng tôi đi tha thẩn vào khu vực đấu kiếm, nơ tôi vẫn thường tới khi tâm trạng không được tốt. Luyện tập luôn làm tôi cảm thấy bớt căng thẳng hơn. Có lẽ do đánh kiếm là điều duy nhất mà tôi thật sự hiểu được.



Tôi bước vào đấu trường, tim tôi như ngừng đập. Ở giữa sàn, ngồi quay lưng lại với tôi là con chó ngao lớn nhất mà tôi từng thấy.



Ý tôi là tôi đã từng nhìn thấy một số con chó ngao to lớn xinh đẹp. Một con to bằng con tê giác đã cố gắng giết tôi khi tôi mười hai tuổi. Nhưng con chó ngao này thì to hơn cả một cái xe tăng. Tôi không hiểu làm sao nó có thể vượt qua ranh giới phép thuật của trại. Giống như đang ở nhà, nó nằm bẹp dí xuống, gầm gừ một cách hài lòng khi nó nhai đứt đầu một chú lính đánh trận giả. Nó vẫn chưa chú ý đến tôi, nhưng nếu tôi gây tiếng động, tôi biết nó sẽ cảm nhận được. Không đủ thời gian để kiếm tìm sự trợ giúp. Tôi lấy cây Thủy Triều ra và mở nắp nó.



“Yaaaaaaah!” Tôi lao tới tấn công. Khi thanh kiếm tiến dần xuống mặt lưng vĩ đại của con quái vật thì một thanh kiếm khác không biết xuất hiện từ đâu đã chặn lưỡi kiếm và hóa giải cú tấn công của tôi.



Con chó vểnh tai lên. “Gâu!”



Tôi nhảy lùi lại phía sau và theo bản năng tấn công người kiếm sĩ kia – một người đàn ông có mái tóc hoa râm trong bộ giáp Hy Lạp. Ông ta dễ dàng tránh được các đòn tấn công của tôi.



“Nào nào!” ông ta nói. “Tạm ngừng!”



“Gâu!” Tiếng sủa của con chó làm rung chuyển cả đấu trường.



“Nó là một con ngao!” tôi gào lên.



“Nó vô hại mà,” người đàn ông nói. “Đó là O’Leary.”



Tôi chớp mắt, “O’Leary?”



Nghe thấy tên mình, con chó lại tiếp tục sủa. Tôi nhận ra nó không giận dữ. Nó đang thích thú. Nó đẩy đẩy cái đầu đẫm nước, đang nhai dở về phía người kiếm sĩ kia.



“Giỏi lắm,” người đàn ông nói. Với tay còn lại ông ấy nắm phần thân của chàng lính ma-nơ-canh ở cổ ném nó về phía khán đài. “Bắt lấy kẻ Hy Lạp đó! Bắt lấy kẻ Hy Lạp đó!”



Con O’Leary nhảy vọt đuổi theo sau con mồi của mình và nện vào hình nộm, khiến lớp áo giáp của nó trở nên bẹp dí. Con chó bắt đầu nhai cái mũ sắt của nó.



Người iếm sĩ cười lạnh nhạt. Ông ta khoảng chừng năm mươi tuổi, tôi đoán vậy, với mái tóc hoa râm ngắn và bộ râu xám được cắt tỉa. Ông ta có ngoại hình đẹp theo tiêu chuẩn của một người đàn ông đứng tuổi. Ông ta mặc quần leo núi màu đen và một tấm giáp che ngực bằng đồng được phủ lên trên chiếc áo cam của trại. Dưới cổ ông ta có một vết lạ, một vết màu đỏ tía giống như vết bớt hoặc một hình xăm, nhưng trước khi tôi kịp nhận ra nó là cái gì, ông ấy kéo dây đai của bộ giáp và cái dấu biến mất đằng sau cổ áo.



“O’Leary là thú cưng của ta,” ông ta giải thích. “Ta không thể để cậu đâm vào mông nó được, đúng không? Điều đó có thể khiến nó sợ hãi đấy.”
Tyson nhíu mày. “Và vì thế cậu ta vạch lên sàn à?”



“Những bộ xương tấn công bọn anh,” tôi nói. “Nico bảo chúng biến đi, và mặt đất chỉ việc hở ra, nuốt gọn bọn chúng. Nico...” Tôi nhìn quanh để đảm bảo không ai nghe thấy. “Nico là con trai của thần Hades.”



Tyson gật đầu đầy chín chắn. “Vị thần của người chết.”



“Đúng vậy.”



“Vậy giờ cậu bé Nico đó đi rồi à?”



“Anh... anh đoán thế. Anh đã cố tìm kiếm cậu ta. Annabeth cũng vậy. Nhưng may mắn đã không mỉm cười với bọn anh. Đây là bí mật đấy, Tyson. Được không? Nếu mọi người biết cậu bé là con trai thần Hades, cậu bé sẽ gặp nguy hiểm. Kể cả bác Chiron, em cũng không được nói nhé.”



“Lời tiên tri nguy hiểm,” Tyson nói. “Các thần khổng lồ Titan sẽ lợi dụng cậu ta nếu biết sự thật này.”



Tôi nhìn Tyson đăm đăm. Thỉnh thoảng tôi quên khuấy mất cậu ta to xác và trẻ con như thế nào, Tyson thực sự rất thông minh. Cậu ấy biết rằng đứa con tiếp theo của Bộ Tam Vĩ Đại – thần Zeus, thần Poseidon, hay thần Hades – khi lên mười sáu tuổi được tiên đoán hoặc sẽ bảo vệ, hoặc sẽ tiêu diệt đỉnh Olympus. Hầu hết mọi người đều cho rằng đó là tôi, nhưng nếu tôi chết trước khi qua tuổi mười sáu thì lời nguyền sẽ dễ dàng chuyển sang cho Nico.



“Chính xác,” tôi khẳng định. “Vậy...”



“Kín miệng,” Tyson hứa. “Giống như vết nứt trên sàn vậy.”



Tối đó tôi lại không ngủ được. Tôi nằm trên giường và nghe sóng vỗ ngoài bờ biển, và tiếng cú và quái vật trong các cánh rừng. Tôi sợ khi ngủ thiếp đi, tôi sẽ lại gặpcơn ác mộng.



Mà các bạn thấy đấy, đối với các á thần thì giấc mơ không chỉ đơn thuần là giấc mơ. Đó là những thông điệp. Chúng tôi thấy những sự việc xảy ra đối với bạn bè mình hoặc là với kẻ thù. Thỉnh thoảng thậm chí chúng tôi còn thấy lờ mờ quá khứ hoặc tương lai. Và khi ở trại, các giấc mơ của tôi thường xảy ra và sống động hơn rất nhiều.



Vì thế mà đến nửa đêm tôi vẫn còn thức, nhìn chằm chằm vào tấm đệm giường bên trên tôi. Và lúc đó tôi nhận ra có một thứ ánh sáng kỳ lạ trong phòng. Bể phun nước mặn đang phát sáng.



Tôi tung chăn ra và cẩn trọng bước tới gần nó. Hơi nước bốc lên từ dòng nước biển nóng. Màu sắc cầu vồng mờ ảo, mặc dù trong phòng không hề có chút ánh sáng nào, ngoại trừ ánh trăng ở bên ngoài. Một giọng phụ nữ dịu dàng cất lên từ làn hơi nước: Hãy đặt một đồng drachma vào.



Tôi nhìn về phía Tyson, nhưng cậu ấy vẫn còn đang ngáy. Cậu ấy ngủ say như con voi bị bắn thuốc mê vậy.



Tôi không biết phải nghĩ gì nữa. Tôi chưa bao giờ nhận được một thông điệp Iris mà người nhận phải trả tiền nào trước đây. Một đồng drachma sáng lấp lánh dưới đáy bể. Tôi nhặt nó lên và ném nó vào Màn Sương Mù. Đồng xu biến mất.



“Thưa nữ thần Iris, Nữ thần của Cầu vồng,” tôi thì thầm. “Hãy cho tôi thấy... ừm, bất cứ điều gì người muốn cho tôi thấy.”



Màn Sương Mù tỏa sáng lung linh. Tôi nhìn thấy một bờ sông tối đen. Những làn sương trôi lững lờ ngang qua làn nước đen ngòm. Bờ sông được trải một lớp đá núi lửa lởm chởm. Một cậu bé đang ngồi xổm bên bờ sông và đang đốt lửa trại. Ngọn lửa đang cháy có màu xanh khác thường. Rồi sau đó tôi nhìn thấy khuôn mặt cậu bé. Đó là Nico di Angelo. Cậu ta đang ném từng mẩu giấy vào trong ngọn lửa – những quân bài ma thuật trong trò chơi mà cậu ta mê mẩn suốt mùa đông năm ngoái.



Nico mới chỉ mười tuổi, hoặc đến giờ này có lẽ là mười một, nhưng trông cậu nhóc trông già hơn tuổi nhiều. Tóc cậu ta đã dài hơn. Nó bờm xờm và đã gần chạm đến vai. Mắt cậu ta đen sẫm. Làn da ô liu của cậu bé trở nên xanh xao hơn. Nico mặc một chiếc quần jean rách màu đen, áo sơ mi đen và bên ngoài là chiếc jacket sờn và nhăn nhúm to hơn cậu đến vài cỡ. Mặt cậu bé đầy bụi bẩn và đôi mắt hơi dại. Cậu trông giống như một đứa trẻ sống lang thang trên các đường phố.



Tôi chờ đợi cậu ta nhìn tôi. C cậu ta sẽ giận điên lên, bắt đầu buộc tội tôi vì đã để chị cậu ta chết. Nhưng cậu bé dường như chẳng chú ý gì đến tôi.



Tôi vẫn im lặng, không dám cử động. Nếu không phải cậu ta gửi bức thông điệp Iris này, vậy ai đã làm?



Nico vứt một quân bài nữa vào đống lửa màu xanh. “Vô dụng,” cậu lẩm bẩm. “Không thể tin là có thời mình lại thích những thứ này.”



“Một trò chơi rất trẻ con, thưa cậu chủ,” một giọng nói khác đồng tình. Giọng nói đó phát ra gần đống lửa, nhưng tôi không thể nhìn rõ người đang nói là ai.



Nico nhìn sang bên kia sông. Ở bờ phía xa là bờ sông tối đen được bao phủ bởi sương mù. Tôi nhận ra nơi đó: Địa Ngục. Nico đang cắm trại bên bờ sông Styx.



“Ta đã thất bại,” cậu bé lẩm bẩm. “Chẳng có cách nào đưa chị ấy quay trở lại.”



Người kia không nói gì.



Nico quay về phía người đó và hỏi một cách nghi ngờ: “Có còn đó không? Nói đi chứ.”



Cái gì đó mờ ảo hiện ra. Tôi cứ tưởng đó chỉ là ánh lửa. Sau đó tôi nhận ra nó có hình dáng một con người – một làn khói xanh, một cái bóng. Nếu bạn nhìn thẳng thì sẽ chẳng thấy hắn ta đâu, nhưng nếu nhìn qua khóe mắt bạn sẽ nhận ra hình dạng đó. Một con ma.



“Chưa có ai làm được cả,” con ma nói. “Nhưng có lẽ có một cách.”



“Nói cho ta nghe,” Nico ra lệnh. Mắt cậu bé sáng lên với sự mãnh liệt.



“Một sự hoán đổi,” con ma nói. “Một linh hồn đổi lấy một linh hồn.”



“Ta đã đề nghị rồi!”



“Không phải của ngài,” con ma nói. “Ngài không thể đưa cho cha ngài một linh hồn mà cuối cùng thì cũng về tay ông ấy. Ông ấy cũng chẳng lo về cái chết của con trai mình. Ý tôi là một linh hồn đáng lẽ đã phải chết rồi kia. Một người đã chết hụt.”



Mặt Nico tối lại. “Không nói chuyện đó nữa. Ngươi đang nói về việc giết người.”



“Tôi đang nói về công lý,” con ma nói. “Sự báo thù.”



“Đó là hai việc khác nhau.”



Con ma cười gàn. “K ngài lớn lên ngài sẽ nhìn sự việc theo cách khác.”



Nico nhìn đăm đăm vào ngọn lửa. “Tại sao? Ít nhất thì ta cũng phải triệu tập được chị ấy chứ? Ta muốn nói chuyện với chị ấy. Chị ấy... chị ấy sẽ giúp ta.”



“Tôi sẽ giúp ngài,” con ma hứa hẹn. “Không phải tôi đã cứu ngài rất nhiều lần rồi sao? Không phải tôi đã dẫn ngài qua mê cung và dạy ngài cách sử dụng quyền năng của ngài sao? Ngài có muốn trả thù cho chị gái mình hay không?”



Tôi không thích giọng lưỡi của con ma đó. Hắn làm tôi nhớ đến một gã ở trường cũ của tôi, một kẻ luôn bắt nạt và thuyết phục những đứa trẻ khác làm những điều ngu xuẩn như: ăn cắp thiết bị trong phòng thí nghiệm, phá hoại ô tô của giáo viên. Gã đó chẳng bao giờ gặp chuyện gì rắc rối, nhưng lại luôn khiến những đứa trẻ khác bị phạt.



Nico quay mặt về phía đống lửa vì thế con ma không nhìn thấy được cậu ta, nhưng tôi thì thấy. Một giọt nước mắt chảy xuống má cậu. “Tốt lắm. Ngươi có kế hoạch gì không?”



“Ồ, có chứ,” con ma vui vẻ nói. “Chúng ta có rất nhiều con đường tăm tối để đi. Chúng ta phải bắt đầu...”



Hình ảnh mờ dần. Nico biến mất. Giọng người phụ nữ trong Màn Sương Mù cất lên, Hãy bỏ thêm một đồng drachma để có thêm năm phút nữa.



Chẳng còn đồng vàng nào cạnh đài phun nước nữa. Tôi sờ túi, nhưng tôi lại đang mặc pyjama. Tôi chạy tới chỗ cái bàn đầu giường để tìm tiền lẻ, nhưng thông điệp Iris đã chập chờn và tắt ngúm, căn phòng lại tối tăm trở lại. Việc kết nối đã bị cắt đứt.



Tôi đứng giữa nhà, lắng nghe tiếng nước chảy róc rách từ chiếc bể phun nước mặn và tiếng sóng biển bên ngoài.



Nico vẫn còn sống. Cậu ta đang cố mang chị mình quay trở về từ cái chết. Và tôi có linh cảm tôi biết được linh hồn nào cậu ta muốn trao đổi – người đã từng chết hụt. Sự báo thù.



Nico di Angelo sẽ đến tìm tôi.