Percy Jackson Tập 5: Vị Thần Cuối Cùng
Chương 9 : Hai con rắn cứu cuộc đời tôi
Ngày đăng: 18:09 19/04/20
Tôi yêu thành phố New York. Bạn có thể vọt lên từ Địa ngục ở ngay giữa Central Park, vẫy taxi, xuôi theo Đại lộ Năm cùng với một con chó ngao địa ngục khổng lồ đang chạy theo đằng sau xe bạn, và chẳng có ai nhìn bạn lấy một cái.
Tất nhiên là Màn Sương Mù cũng đã giúp. Mọi người chắc chắn không thể nhìn thấy con O’Leary, hoặc có lẽ họ nghĩ nó là chiếc xe tải kềnh càng, ầm ĩ, rất thân thiện.
Tôi mạo hiểm dùng điện thoại di động của mẹ gọi cho Annabeth lần thứ hai. Tôi đã gọi cho cô ấy một lần lúc ở trong đường hầm, nhưng chỉ liên lạc được với hộp thư thoại. Tôi đã có một sự chào đón đầy ngạc nhiên, liên qu đến việc tôi đang ở trung tâm thần thánh của thế giới và tất cả những gì liên quan đến đó, nhưng tôi không muốn nhìn thấy chi phí sử dụng dịch vụ roaming(2) của mẹ tôi sẽ phải trả sau này.
Lần này, Annabeth nhận cuộc gọi.
“Chào,” tôi nói. “Cậu nhận được tin nhắn của tớ không?”
“Percy, cậu đang ở đâu vậy? Tin nhắn của cậu chả nói lên điều gì. Bọn tớ lo chết đi được!”
“Tớ kể ngọn ngành với cậu sau,” tôi nói, mặc dầu tôi sẽ làm chuyện đó như thế nào thì tôi không rõ lắm. “Giờ cậu đang ở đâu?”
“Tụi tớ đang trên đường đi theo như cậu bảo, gần đến Đường hầm Midtown Queens. Nhưng Percy này, cậu đang tính làm gì thế? Tất cả bọn tớ đều ra đi, trại gần như không có người bảo vệ và không đời nào các thần...”
“Tin tớ đi,” tôi nói. “Tớ sẽ gặp cậu ở đó.”
Tôi cúp máy. Hai tay tôi đang run bần bật. Tôi không chắc liệu đây là phản ứng phụ từ việc đầm mình vào trong dòng sông Styx hay linh cảm về những gì tôi sắp làm. Nếu điều này không hiệu quả, việc không thể bị thương sẽ không thể cứu tôi khỏi bị nổ tung thành từng mảnh nhỏ.
Cuối giờ chiều, chiếc taxi thả tôi trước Tòa nhà Empire State. Con O’Leary nhảy nhót ngược xuôi trên Đại lộ Năm, liếm xe taxi và ngửi ngửi các xe bán hotdog. Mọi người dường như chẳng chú ý gì đến nó, mặc dầu mọi người né qua một bên và trông bối rối khi nó đến gần.
Tôi huýt sáo gọi nó đi theo tôi khi ba chiếc xe trắng tấp vào lề. Trên sườn xe sơn hàng chữ Dịch vụ Cung ứng Dâu tây Delphi, tên ngụy trang của Trại Con Lai. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy cả ba xe cùng một lúc, mặc dầu tôi biết chúng thay phiên chuyên chở sản phẩm tươi của trại chúng tôi cho thành phố.
Chiếc xe đầu tiên do anh Argus cầm lái. Anh là trưởng nhóm bảo vệ nhiều mắt của trại. Hai chiếc còn lại được lái bởi các nữ yêu quái mình người cánh chim, một loại người lai giữa gà/người bị quỷ ám với tính cách cực kỳ khó chịu. Chúng tôi sử dụng các yêu quái mình người cánh chim phần lớn cho việc quét dọn ở trại, nhưng họ cũng làm khá tốt trong điều khiển phương tiện giao thông trong khu vực trung tâm thành phố.
Các cánh cửa mở ra. Một nhóm các trại viên leo xuống, một vài người trong số họ trông hơi xanh vì chuyến đi dài. Tôi mừng vì có nhiều người đã đến: Pollux, Silena Beauregard, anh em nhà Stoll, Michael Yew, Jake Mason, Katie Gardner và Annabeth, cùng với phần lớn các anh em thuộc nhà của họ. Bác Chiron từ chiếc xe cuối bước xuống. Phần nửa ngựa của bác được gắn chặt vào chiếc xe lăn ma thuật, vì thế bác ấy phải sử dụng bệ nâng dành cho người khuyết tật. Không một ai trong nhà thần Ares có mặt, nhưng tôi cố không quá giận dữ về chuyện đó. Clarisse là một tên ngốc cứng đầu. Hết chuyện.
Tôi thầm đếm trong đầu: bốn mươi trại viên cả thảy.
Không quá nhiều cho một trận chiến, nhưng đây vẫn là một nhóm con lai lớn nhất tôi đã từng thấy tụ tập cùng một nơi bên ngoài trại. Mọi người trông khá sợ hãi, và tôi hiểu lý do cho điều đó. Chúng tôi chắc chắn đã gửi đi quá nhiều mùi á thần đến nỗi mọi con quái vật ở vùng đông bắc Hoa Kỳ đều biết rõ chỗ chúng tôi đang đứng.
Khi tôi nhìn vào gương mặt họ – tất cả những trại viên tôi biết sau quá nhiều mùa hè bên nhau – một giọng nói mè nheo vang lên trong đầu tôi: Một trong số họ là gián điệp.
Nhưng tôi không thể suy nghĩ nhiều quá về chuyện đó. Họ là bạn tôi. Tôi cần họ.
Rồi tôi nhớ đến nụ cười nham hiểm của Kronos. “Mày không thể dựa vào bạn bè. Chúng luôn phụ lòng tin của mày.”
Annabeth đến gần tôi. Cô ấy mặc đồ rằn ri màu đen với con dao bằng đồng celestial đeo trên bắp tay và túi laptop khoác trên vai – sẵn sàng cho cả việc rút dao đâm và lướt mạng Internet, cho dù bất cứ điều gì xảy ra trước.
Cô ấy cau mày. “Có chuyện gì?”
“Có chuyện gì là gì?”
“Cậu đang nhìn tớ là lạ.”
Tôi nhận ra tôi đang nghĩ đến cảnh mộng kỳ lạ của tôi về việc Annabeth kéo tôi ra khỏi Sông Styx. “Là, ừm, không có gì.” Tôi quay sang các trại viên còn lại trong nhóm. “Cám ơn vì đã đến, các cậu. Bác Chiron, mơ bác đi trước!”
Người cố vấn già của tôi lắc đầu. “Ta đến chỉ để chúc cháu may mắn, cậu bé của ta. Nhưng bác đã tự hứa là nếu không có lệnh triệu tập, bác sẽ không bao giờ đến đỉnh Olympus.”
“Nhưng bác là chỉ huy của bọn cháu.”
Bác ấy mỉm cười. “Ta là thầy giáo, là huấn luyện viên của các cháu. Điều đó không giống với việc là người chỉ huy các cháu. Ta sẽ đi tập hợp thêm các đồng minh ta có thể. Giờ chắc cũng không quá muộn để thuyết phục các người anh em nhân mã của bác đến giúp một tay. Với lại, cháu đã gọi các trại viên đến đây, Percy. Cháu mới là người chỉ huy.”
Tôi muốn phản đối, nhưng mọi người lại đang nhìn tôi đầy hy vọng, kể cả Annabeth.
Tôi hít thật sâu. “Được rồi, như tớ đã nói chuyện qua điện thoại với Annabeth, có điều gì đó nguy hại sẽ xảy ra vào tối nay. Một loại bẫy nào đó. Chúng ta sẽ phải tiếp kiến thần Zeus và thuyết phục ông ấy bảo vệ thành phố. Hãy nhớ, chúng ta không thể có câu trả lời là Không.”
Tôi nhờ anh Argus trông chừng con O’Leary, và cả hai đều không vui vì điều đó.
Bác Chiron bắt tay tôi. “Cháu sẽ làm tốt, Percy. Hãy nhớ về các mặt mạnh và thận trọng với các điểm yếu của cháu nhé.”
Điều bác ấy nói giống hệt như lời Achilles dặn tôi. Rồi tôi nhớ ra bác Chiron đã từng dạy Achilles. Điều đó chính xác không mang lại cho tôi sự tự tin, nhưng tôi gật đầu và cố mỉm cười đầy tự tin với bác ấy.
“Chúng ta đi thôi.” tôi nói với các trại viên.
Một nhân viên an ninh ngồi phía sau một cái bàn ở sảnh, đang đọc một cuốn sách đen lớn có hình một bông hoa trên trang bìa. Anh ta ngước lên khi tất cả chúng tôi đi vào cùng với các loại vũ khí và tiếng kêu lách cách của áo giáp. “Một nhóm học sinh sao? Sắp đến giờ đóng cửa rồi.”
“Không,” tôi đáp. “Tầng sáu trăm.”
Anh ta chăm chú nhìn chúng tôi. Đôi mắt anh ta có màu xanh nhạt và đầu thì hói bóng lưỡng, không̣i tóc. Tôi không thể nói anh ta là người hay là không nữa, nhưng anh ta dường như nhận ra các vũ khí của chúng tôi, vì thế tôi đoán anh ta không bị Màn Sương Mù lừa.
“Không có tầng sáu trăm, nhóc.” Anh ta nói như thể không tin về tầng mà chúng tôi yêu cầu. “Đi chỗ khác chơi.”
Tôi nhoài người lên mặt quầy. “Bốn mươi á thần đủ thu hút đủ các loại quái vật khủng khiếp. Anh thực sự muốn bọn em đứng lãng vãng trong phòng đợi của anh sao?”
Anh ta nghĩ nghĩ về điều đó. Sau đó anh ta nhấn nút và cánh cửa an ninh mở rộng ra. “Vào nhanh đi.”
“Anh không muốn bọn em đi qua máy dò kim loại,” tôi thêm vào.
“Ừm, không,” anh ta đồng ý. “Thang máy bên phải nhé. Tôi cho là cậu biết rõ.”
Tôi ném cho anh ta một đồng vàng drachma và chúng tôi lần lượt theo nhau đi vào.
Chúng tôi quyết định sẽ chia thành hai nhóm để đưa hết được mọi người lên bằng thang máy. Tôi đi cùng nhóm thứ nhất. Nhạc trong thang máy đã được đổi thành bản disco cổ xưa Stayin’ Alive kể từ lần cuối cùng ghé đến đây của tôi. Một hình ảnh khiếp sợ lóe lên trong đầu tôi, đó là hình ảnh thần Apollo mặc quần ống loe và áo sơ mi lụa bó sát.
Tôi vui mừng khi các cánh cửa thang máy cuối cùng cũng mở ra. Trước mặt chúng tôi, một con đường với các phiến đá xuyên qua các đám mây, dẫn đến đỉnh Olympus, đang trôi lơ lửng khoảng gần hai ngàn mét phía trên Manhattan.
Tôi đã nhìn thấy đỉnh Olympus một vài lần, nhưng nó vẫn khiến tôi thấy ngạc nhiên. Các dinh thự trắng và vàng lấp lánh tựa vào các bên của ngọn núi. Các khu vườn khoe sắc rực rỡ ở một trăm mái hiên. Làn khói hương tỏa ra từ các lò than lấp đầy các con đường uốn lượn quanh co. Và ngay phía trên đỉnh núi phủ đầy tuyết là cung điện chính của các vị thần. Nó trông vẫn tráng lệ như vốn có, nhưng có thứ gì đó không đúng. Rồi tôi nhận ra ngọn núi hoàn toàn im lặng – không âm nhạc, không tiếng nói, không một tiếng cười.
Annabeth nhìn tôi đăm đăm. “Cậu trông... khang khác,” cô ấy nhận xét. “Chính xác là cậu đã đi đâu?”
C thang máy lại mở và nhóm con lai thứ hai gia nhập vào nhóm của bọn tôi.
“Sẽ kể cho cậu sau,” tôi nói. “Đi thôi.”
Chúng tôi đi băng qua cây cầu trên không đi vào các con đường của đỉnh Olympus. Các quầy hàng đều đóng cửa. Các công viên vắng tanh. Hai Nàng Thơ ngồi trên ghế dài đang gảy đàn lia, nhưng tâm trí họ để tận đâu đâu. Một Cyclops cô độc quét đường với một cây sồi nhổ bật rễ. Một tiểu thần nhìn thấy chúng tôi từ một ban công và nhanh chóng lùi lại, đóng tất cả các cửa chớp của nhà mình lại.
Chúng tôi đi băng qua bên dưới một cổng vòm bằng đá hoa cương lớn với các bức tượng của thần Zeus và nữ thần Hera ở mỗi bên. Cô ấy nhăn mặt làm trò với nữ hoàng của các vị thần.
Giọng thần nghẹn ngào và ông ấy quay trở lại hình dáng của con người. “Con trai của ta, niềm tự hào lớn nhất của ta.... May tội nghiệp của ta...”
Ông ấy trông khổ sở đến nỗi tôi không biết phải nói gì. Một phút trước ông ấy sẵn sàng làm cho chúng tôi bốc hơi. Giờ ông ấy lại trở nên yếu đuối, cần một người an ủi.
“Nghe này, thần Hermes,” tôi nói. “Cháu xin lỗi, nhưng cháu cần phải biết. Chuyện gì đã xảy ra với bác May? Bà ấy đã nói điều gì đó về số mệnh của Luke, và đôi mắt của bác ấy...”
Thần Hermes nhìn tôi trừng trừng và giọng tôi trở nên ấp a ấp úng. Tuy thế nét mặt ông ấy không phải là sự giận dữ. Đó là sự đau đớn – nỗi đau sâu kín, không thể nào hình dung được.
“Ta sẽ để các ngươi ở lại,” ông ấy nói một cách khó khăn. “Ta còn có một cuộc chiến đang chờ đợi.”
Ông ấy bắt đầu tỏa sáng. Tôi quay người lại và chắc rằng Annabeth cũng đã làm thế, vì cô ấy vẫn đang đông cứng người vì sốc.
Chúc may mắn, Percy, con rắn có tên Martha thì thầm.
Thần Hermes tỏa sáng rực rỡ với ánh sáng của một ngôi sao băng. Sau đó ông ấy biến mất.
Annabeth ngồi ở chân ngai mẹ cô ấy và khóc. Tôi muốn ai ủi cô ấy, nhưng tôi không chắc lắm về việc làm như thế nào.
“Annabeth,” tôi nói, “đó không phải là lỗi của... Tớ chưa bao giờ thấy thần Hermes cư xử như thế. Tớ đoán... tớ cũng không biết nữa... chắc ông ấy cảm thấy có lỗi về chuyện của Luke. Ông ấy chỉ đang tìm ai đó để đổ lỗi đấy mà. Tớ không biết tại sao ông ấy trách mắng cậu. Cậu đã không làm bất cứ điều gì để đáng phải chịu chuyện đó.”
Annabeth lau nước mắt. Cô ấy nhìn chăm chăm vào đống lửa như thể đó là giàn thiêu của chính mình.
Tôi bứt rứt chuyển chuyển chân. “Ừm, cậu đã không làm, đúng không?”
Cô ấy không trả lời tôi. Con dao bằng đồng celestial của cô ấy được cột vào cánh tay cô – là con dao tôi đã nhìn thấy trong cảnh mộng của nữ thần Hestia. Trong chừng ấy năm trôi qua, tôi đã không nhận ra nó chính là món quà của Luke. Tôi đã nhiều lần hỏi sao cô ấy lại thích dùng dao để chiến đấu thay cho kiếm, và cô ấy không bao giờ trả lời câu hỏi đó của tôi. Giờ thì tôi đã rõ.
“Percy,” cô ấy nói. “Lúc nãy cậu nói về mẹ Luke là có ý gì? Cậu gặp bác ấy sao?”
Tôi miễn cưỡng gật đầu. “Nico và tớ đã ghé thăm bác ấy. Bác ấy có hơi chút... không bình thường. Tôi mô tả bà May Castellan, và khoảnh khắc kỳ lạ khi đôi mắt bà ấy phát sáng và bà ấy nói về số phận con trai mình.
Annabeth cau mày. “Điều đó không đúng. Nhưng sao cậu lại ghé...” Mắt cô ấy mở lớn. “Thần Hermes đã nói cậu chịu lời nguyền của Achilles. Nữ thần Hestia cũng bảo thế. Thế cậu đã... cậu đã tắm trong dòng Sông Styx?”
“Đừng đổi đề tà“Percy! Cậu có hay không?”
“À... chỉ là một chút thôi.”
Tôi kể cho cô ấy nghe về thần Hades và Nico, về chuyện tôi đã xóa sổ đội quân người chết như thế nào. Tôi bỏ qua đoạn tôi mơ thấy Annabeth kéo tôi ra khỏi dòng sông. Tôi vẫn không hiểu rõ lắm về phần đó, và chỉ nghĩ đến nó thôi cũng khiến tôi ngượng chín người.
Cô ấy lắc đầu đầy hoài nghi. “Cậu có hình dung được điều đó nguy hiểm như thế nào không?”
“Tớ không còn lựa chọn nào khác,” tôi nói. “Đó là cách duy nhất tớ có thể đối đầu với Luke.”
“Ý cậu là... trở nên bất tử, đúng là vậy rồi! Đó là lý do vì sao Luke đã không chết. Anh ấy đã đến sông Styx, rồi... Ôi, không, Luke. Anh đang nghĩ gì vậy?”
“Vậy giờ cậu lại lo lắng cho Luke,” tôi càu nhàu.
Cô ấy nhìn tôi chằm chằm như thể tôi vừa mới rớt xuống từ một hành tinh nào đó. “Cậu mới nói gì?”
“Quên đi,” tôi lẩm bẩm. Tôi tự hỏi ý của thần Hermes là gì khi đề cập đến việc Annabeth không cứu Luke khi cô ấy có cơ hội. Rõ ràng là cô ấy đã không nói cho tôi biết điều gì đó. Nhưng vào lúc đó, tôi không có tâm trạng để hỏi. Điều cuối cùng tôi muốn được nghe là thêm nhiều hơn nữa lịch sử của cô ấy với Luke.
“Vấn đề là hắn đã không chết trong dòng sông Styx,” tôi nói. “Tớ cũng thế. Giờ tớ phải đối đấu với hắn. Chúng ta cùng bảo vệ đỉnh Olympus.”
Annabeth vẫn đang nhìn chằm chằm vào mặt tôi, như thể cô ấy đang cố tìm ra các điểm khác biệt sau khi tôi tắm trong Sông Styx. “Tớ đoán cậu nói đúng. Mẹ tớ đã nhắc đến...”
“Kế hoạch hai mươi ba.”
Cô ấy mò mẫm trong balô là lấy chiếc laptop của Daedalus. Biểu tượng Delta chớp sáng trên mặt chiếc laptop. Cô mở một vài tập tin và bắt đầu chăm chú đọc.
“Tìm ra rồi,” cô ấy nói. “Thánh thần ơi, chúng ta có rất nhiều việc phải là
“Một trong các sáng kiến của Daedalus à?”
“Rất nhiều các sáng kiến... có những cái rất nguy hiểm nữa. Nếu mẹ tớ muốn tớ sử dụng kế hoạch đó, bà ắt đã nghĩ mọi việc sẽ rất tồi tệ.” Cô ấy nhìn tôi. “Thế còn thông điệp của bà ấy với cậu: ‘hãy nhớ các con sông’ thì sao hả? Điều đó có nghĩa là gì?”
Tôi lắc đầu. Như mọi khi, tôi không thể giải thích được điều mà các thần đang nói với tôi. Tôi phải nhớ các con sông nào đây? Sông Styx? Sông Mississippi?
Ngay lúc ấy, anh em nhà Stoll chạy ùa vào phòng ngai. Connor hổn hển:
“Các cậu cần phải thấy điều này,” Connor nói. “Ngay bây giờ.”
Các tia sáng xanh trên bầu trời tắt hẳn, vì thế lúc đầu tôi không biết có chuyện gì đã xảy ra.
Các trại viên khác đã tập hợp lại trong một công viên nhỏ ở rìa chân núi. Họ tập trung ở thành lan can, đang nhìn xuống Manhattan. Dọc lan can xếp đầy các ống nhòm tầm xa, loại dành cho khách du lịch. Bạn có thể bỏ vào một đồng vàng drachma, và có thể quan sát toàn thành phố. Các trại viên đang dùng hết ống nhòm trên lan can.
Tôi nhìn xuống thành phố. Từ đây tôi có thể thấy phần lớn mọi thứ bên dưới – Sông Đông và Sông Hudson hợp nhau tạo thành hình dáng của Manhattan, mạng lưới đường phố đan xen nhau, bóng tối trãi dài của Công viên Central Park ở phía bắc. Mọi thứ trông có vẻ bình thường, nhưng có gì đó không ổn. Tôi cảm nhận rõ điều đó trước khi tôi nhận ra đó là gì.
“Tớ không... nghe thấy gì hết,” Annabeth nói.
Bất ổn chính ở đó.
Thậm chí ở độ cao này, tôi sẽ phải nghe được tiếng ồn của thành phố – tiếng của hàng triệu người hối hả đi lại, tiếng của hàng vạn xe hơi và máy móc các loại – tiếng ngân nga của một đô thị rộng lớn. Bạn không nghĩ về điều đó khi bạn sống ở New York, nhưng nó luôn ở đó. Ngay cả lúc nửa đêm, New York vẫn không bao giờ im lặng.
Nhưng lúc này, điều đó lại
Tôi có cảm giác như thể một người có bạn thân của mình đột nhiên lăn ra chết.
“Chúng đã làm gì?” Giọng tôi đanh lại, đầy giận dữ. “Chúng đã làm gì thành phố của tôi?”
Tôi đẩy Michael Yew ra và chiếm lấy ống nhòm của cậu ta.
Trên các con đường bên dưới, các phương tiện giao thông đứng khựng lại. Khách bộ hành nằm trên các vỉa hè, hay cuộn tròn ở các cửa. Không hề thấy dấu hiệu của bạo lực, hay phá hoại, không hề. Đơn giản như thể mọi người ở New York đồng loạt quyết định ngừng bất cứ việc gì họ đang làm và lăn ra ngủ.
“Họ chết cả rồi ư?” Silena hỏi với sự kinh ngạc.
Tôi lạnh toát cả người. Một câu trong đoạn tiên tri vang lên bên tai tôi. Và nhìn thế giới trong giấc ngủ triền miên. Tôi nhớ lại câu chuyện của Grover về việc gặp thần Morpheus ở Central Park. May cho ngươi là ta đang cần giữ sức cho trận chính.
“Không chết,” tôi nói. “Thần Morpheus đã làm cho mọi người trên đảo Manhattan chìm vào giấc ngủ. Cuộc xâm lược đã bắt đầu.”