Quyền Lực Thứ Tư

Chương 10 :

Ngày đăng: 15:13 19/04/20


Báo



NEWS CHRONICLE



Ngày 1 tháng Mười, 1946



TOÀ ÁN NUREMBERG: TỘI ÁC CỦA GOERING ĐỘC NHẤT VÔ NHỊ VÌ TẦM CỠ CỦA NÓ.



Khi Keith Townsend đến trường Worcester, Oxford theo học khoa Chính trị, Triết học và Kinh tế, cảm giác đầu tiên của anh về nước Anh hoàn toàn giống như những gì anh đã nghĩ: tự mãn, hợm hĩnh và kênh kiệu, cứ như vẫn đang là thời đại Nữ hoàng Victoria. Xã hội chỉ phân chia hai loại người: các sĩ quan và các đẳng cấp khác, và vì Keith từ xứ thuộc địa đến, nên ai nấy đều sớm tỏ cho anh thấy rõ anh thuộc đẳng cấp nào.



Hầu như tất cả sinh viên cùng trường đều là hình ảnh của một ông Jessop thủa còn trẻ, và đến cuối tuần lễ đầu tiên, Keith lẽ ra đã sung sướng trở về nhà nếu như không có ông thầy hướng dẫn thảo luận tổ của anh. Tiến sĩ Howard lại là bức tranh tương phản hoàn toàn với ông hiệu trưởng cũ. Ông không tỏ vẻ ngạc nhiên khi anh chàng thanh niên người Úc, trong lúc uống rượu đã nói với ông rằng anh ta khinh bỉ cái hệ thống đẳng cấp của nước Anh, thể hiện rất rõ trong đám học sinh của trường. Thậm chí ông còn kiềm chế không bình luận về bức tượng bán thân của Lênin mà Keith để trên nóc lò sưởi, nơi năm trước còn treo ảnh Hầu tước Salisbury.



Tiến sĩ Howard không sẵn có cách giải quyết vấn đề đẳng cấp. Thực tế, lời khuyên duy nhất của ông là anh nên dự Hội chợ của sinh viên mới vào trường: ở đó anh sẽ biết tất cả về những câu lạc bộ, những hội mà sinh viên có thể tham gia, và có lẽ sẽ tìm được những gì hợp với sở thích của mình.



Theo lời khuyên của tiến sĩ Howard, suốt buổi sáng hôm sau Keith ngồi nghe người ta giảng giải tại sao anh cần phải trở thành hội viên Câu lạc bộ bơi thuyền, Hội tem, Hội kịch, Hội cờ vua, Hội huấn luyện sĩ quan và đặc biệt là tờ báo của sinh viên. Nhưng sau khi gặp tổng biên tập của tờ Cherwell và nghe quan điểm của anh ta về việc cần quản lý tờ báo như thế nào, anh quyết định tập trung vào chính trị. Anh rời hội chợ sinh viên, có trong tay đơn xin gia nhập Liên đoàn Oxford và Câu lạc bộ Lao Động.



Thứ Ba tiếp theo, Keith tìm đường đến Cánh tay Những Người Thợ xây. Ở đó người coi quầy rượu chỉ cho anh theo cầu thang lên một căn phòng nhỏ là nơi thành viên CLB Lao Động thường họp.



Chủ tịch CLB Rex Siddons lập tức nghi ngờ người anh em Keith vì anh chàng này ngay từ đầu cứ đòi nói chuyện với ông ta. Townsend có đủ mọi biểu hiện của một tay thuộc phái Bảo thủ truyền thống: cha được phong tước, học trường tư, có tiền học riêng và lại còn có cả chiếc ô tô cũ hiệu Mate.



Nhưng qua nhiều tuần, và tối thứ Ba nào các hội viên của CLB Lao Động cũng được nghe quan điểm của Keith về nền quân chủ, về trường tư thục, hệ thống huy chương và tầng lớp thượng lưu của Oxford và Cambridge, thì anh trở thành Đồng chí Keith. Một vài người sau khi họp còn đến phòng anh, thảo luận tới sáng về cách làm thế nào để thay đổi thế giới một khi họ đã ra khỏi cái "nơi kinh khủng này".



Suốt học kỳ đầu, Keith ngạc nhiên thấy nếu anh không có mặt trong buổi lên lớp, hoặc thậm chí không có mặt trong buổi thảo luận tổ mà sẽ phải đọc bài của mình cho thầy hướng dẫn nghe, anh không hề bị trừng phạt hoặc thậm chí bị quở trách. Phải mất vài tuần anh mới làm quen được với một hệ thống tự giác khép mình vào kỷ luật, và đến cuối học kỳ đầu, cha anh doạ nếu anh không chí thú học hành, ông sẽ cắt trợ cấp, lôi anh về nhà làm việc.



Trong học kỳ hai, cứ thứ Sáu Keith lại viết một lá thư dài cho cha, kể rõ về khối lượng bài vở mà anh đang làm và điều này hình như đã ngăn bớt được những lời trách mắng. Thỉnh thoảng anh còn lên lớp ngồi nghe, nhưng đầu thì tập trung vào việc tìm cách hoàn thiện hệ thống chơi rulét.



Trong kỳ hè, Keith phát hiện ra Cheltenham, Newmarket, Ascot, Doncaster và Epsom (1), vì thế đảm bảo anh không bao giờ còn đủ tiền mua một sơ mi mới, hoặc thậm chí một đôi tất mới.



Suốt kỳ nghỉ, rất nhiều lần anh phải ăn tại ga tàu hoả, mà vì ở gần Worcester nên nhiều sinh viên coi đó như căng tin trường. Một tối, sau khi uống hơi quá chén tại Cánh tay Những người Thợ xây, Keith bôi lên bức tường có từ thế kỷ XVIII của Worcester hàng chữ tiếng Pháp: "Tuyệt diệu, nhưng không phải nhà ga".



Cuối năm học thứ nhất, Keith chẳng có gì nhiều để chứng tỏ thành quả của mười hai tháng học hành tại đại học, ngoài một nhóm nhỏ bạn bè, những người cũng giống như anh quyết tâm thay đổi chế độ này để đem lại lợi ích cho đa số.



Mẹ anh thường xuyên viết thư gợi ý anh nên nhân kỳ nghỉ qua thăm châu Âu vì rất có thể không bao giờ anh còn dịp làm được như vậy. Anh nghe lời khuyên của bà, bắt đầu vạch ra một kế hoạch mà lẽ ra anh đã thực hiện được nếu không gặp tay nhà báo phụ trách các tin chính của tờ Oxford Mail khi uống bia trong một quán nhỏ.



Mẹ thân yêu,



Con mới nhận được thư trong đó mẹ gợi ý những việc con nên làm trong kỳ nghỉ. Con đã nghĩ nghe theo lời khuyên của mẹ, đánh xe đi dọc bờ biển của nước Pháp, có thể đến tận Deauville, nhưng đó là trước khi con gặp biên tập viên của tờ Oxford Mail ; ông này lại muốn tạo cơ hội cho con tới thăm Berlin.



Họ muốn con viết bốn bài, mỗi bài khoảng một ngàn từ, về cuộc sống ở nước Đức dưới thời các lực lượng Đồng minh chiếm đóng, sau đó tới Dresden để viết về việc xây dựng lại thành phố này. Nếu được đăng, mỗi bài họ trả cho con hai mươi guinea. Vì tình trạng tài chính rất bấp bênh, mà lỗi là ở con chứ không phải tại mẹ, nên Berlin đã thay thế cho Deauville.



Nếu ở Đức họ còn có cái gọi là bưu ảnh, thì con sẽ gửi cho mẹ một chiếc, cùng bốn bài báo cho bố xem xét. Có thể tờ Courier cũng quan tâm chăng?



Con xin lỗi không về thăm mẹ hè này được.



Con của mẹ,



Keith



Khi học kỳ kết thúc, Keith cùng đi theo hướng của nhiều sinh viên khác. Anh lái chiếc MG xuống Dover, lên phà vượt eo biển tới Calais. Nhưng khi những sinh viên kia xuống phà bắt đầu chuyến đi thăm những thành phố lịch sử ở lục địa thì anh lại đánh xe về hướng đông bắc, theo đường tới Berlin. Trời rất nóng, nên lần đầu tiên Keith có thể hạ mui xe xuống.



Lái xe dọc theo những con đường ngoằn nghoèo của Pháp và Bỉ, anh thường nghĩ mới hồi nào đây châu Âu còn đang có chiến tranh. Những thôn xóm, ruộng đồng bị tàn phá, nơi xe tăng thay thế cho máy cày, những ngôi nhà bị bom đạn trong khu vực giữa đội quân đang rút chạy và đội quân tiến công, những con sông ngổn ngang các phương tiện quân sự đang han rỉ. Mỗi khi xe chạv qua những ngôi nhà bị bom đạn phá nát, những khung cảnh ven đường bị tàn phá, thì ý nghĩ về Deauville với những sòng bạc, những trường đua ngựa lại càng hấp dẫn anh hơn.



Khi trời tối quá, không còn nhìn thấy các ổ gà trên đường mà tránh nữa, Keith bỏ đường lớn, cho xe chạy khoảng vài trăm mét dọc một con đường nhỏ im ắng. Anh đỗ xe bên đường, lăn ra ngủ li bì. Bị đánh thức khi trời vẫn còn tối bởi tiếng xe tải chạy ầm ầm về phía biên giới với Đức, anh viết một nhận xét: "Quân đội thức dậy không cần theo quy luật của mặt trời". Phải mấy lần khởi động, xe mới nổ lại được. Anh dụi mắt, quay xe trở lại đường lớn, cố nhớ cho xe chạy phía bên phải đường.



Vài tiếng sau, anh tới được biên giới và phải đứng đợi trong một hàng dài: bất cứ ai muốn vào Đức đều bị kiểm tra rất kỹ. Cuối cùng anh cũng lên được đầu hàng, ở đó một sĩ quan hải quan xem kỹ hộ chiếu của anh. Khi phát hiện Keith là người Úc, anh ta nói câu châm chọc về Donald Bradman rồi vẫy tay cho anh qua.



Dù đã đọc hoặc nghe nhiều, nhưng Keith vẫn hoàn toàn bất ngờ với những điều anh thấy ở một đất nước bị bại trận. Anh phải cho xe chạy chậm dần vì những vết nứt trên đường chuyển thành những hố sâu hoắm, rồi càng về sau chúng càng giống những cái ao nhỏ. Không lâu sau, anh chỉ có thể đánh xe chạy như rùa được khoảng vài trăm mét, cứ như lái xe chạy điện húc nhau trong một trò chơi ở công viên. Và khi đã có thể cho xe chạy với tốc độ bốn mươi cây số một giờ, anh lại phải tránh xe qua bên, nhường một đoàn xe tải khác, lần này trên cánh cửa xe có in những ngôi sao đỏ, rầm rập chạy giữa đường.



Anh quyết định dùng thời gian chờ đường để ăn trong một quán nhỏ cạnh đó. Đồ ăn không nuốt nổi, bia thì nhạt thếch, trong khi những cái nhìn hằn học của người chủ quán và thực khách cho thấy anh không hề được hoan nghênh. Anh chẳng buồn gọi món thứ hai, nhanh chóng tính tiền rồi đi.



Anh đánh xe theo hướng thủ đô nước Đức, nhích chầm chậm từng dặm đường, đến được ngoại vi thành phố chỉ vài phút trước khi đèn xe báo hết xăng. Anh lập tức tìm kiếm một khách sạn ở những phố nhỏ. Anh biết rằng càng vào trung tâm thành phố, càng ít khả năng anh có thể chịu đựng nổi giá thuê phòng.



Cuối cùng, anh cũng tìm được một nhà nghỉ ở góc một phố bị bom phá nát. Nó đứng chơ vơ một mình, cứ như không cần biết xung quanh đã xảy ra chuyện gì. Anh đẩy cửa bước vào. Căn phòng bẩn thỉu được chiếu sáng bằng một ngọn nến duy nhất, người lễ tân mặc chiếc quần dài rộng thùng thình, sơ mi xám, sưng sỉa đứng sau quầy. Ông ta không buồn nhúc nhích khi Keith cố đặt phòng. Keith chỉ biết vài tiếng Đức, vì vậy cuối cùng anh đành giơ cả bàn tay, hy vọng ông ta sẽ hiểu anh muốn trọ năm tối.
Williams kiên quyết đòi kết quả bỏ phiếu phải được ghi vào biên bản cuộc họp, đề phòng có người kiện cáo. Keith nói thẳng thừng rằng anh không có ý định ấy. Williams vẫn với nụ cười mai mỉa trên môi.



Keith không ở lại nghe kết quả bỏ phiếu nghị quyết thứ hai. Anh về phòng từ rất lâu trước đó. Anh không được nghe cuộc bàn cãi kéo dài về việc khi bây giờ chỉ có một ứng cử viên vào ghế chủ tịch thì có cần phải in phiếu nữa không.



Ngày hôm sau, một vài sinh viên tỏ ý tiếc về việc Keith bị tước quyền ứng cử. Nhưng anh đã đi đến quyết định rằng Công Đảng không có khả năng bước vào thế giới thực trước khi kết thúc thế kỷ này, và anh không thể làm gì được về chuyện đó, cho dù anh có được bầu làm chủ tịch đi nữa.



Đêm đó, ông hiệu trưởng ngồi nói chuyện với Keith. "Tôi hoàn toàn không buồn với kết cục đó, bởi vì tôi phải báo cho cậu biết, thầy hướng dẫn thảo luận cho rằng nếu cậu cứ tiếp tục buổi đực buổi cái như trong hai năm vừa rồi, rất nhiều khả năng cậu sẽ chẳng đỗ đạt gì ở cái trường này".



Trước khi Keith kịp lên tiếng tự bảo vệ mình, vị hiệu trưởng nói tiếp; "Tất nhiên tôi biết cái văn bằng Oxford chẳng quan trọng lắm đối với một người đã chọn nghề nghiệp như cậu, nhưng tôi chỉ xin gợi ý để cậu suy nghĩ là cha mẹ cậu sẽ vô cùng thất vọng nếu sau ba năm học ở đây, cậu mang về cho họ hai bàn tay trắng”.



Trở về ký túc, đêm đó Keith nằm suy nghĩ một cách cẩn thận về lời cảnh cáo của ông hiệu trưởng. Nhưng chính lá thư mấy ngày sau anh nhận được mới thực sự thôi thúc anh hành động. Mẹ cho biết cha anh bị nhồi máu cơ tim nhẹ, và bà hy vọng không lâu nữa, anh sẽ sẵn sàng gánh vác bớt một phần trách nghiệm cho cha mình.



Keith lập tức đặt điện thoại đường dài gọi cho mẹ ở Toorak. Khi máy thông, điều đầu tiên anh hỏi là bà có muốn anh trở về nhà không.



"Không", bà đáp ngay. "Nhưng cha con hy vọng lúc này con dành nhiều thời gian hơn vào chuyện học hành, nếu không cha con cảm thấy Oxford chẳng có ý nghĩa gì với con cả".



Một lần nữa Keith lại quyết tâm chuẩn bị cho thi cử. Trong suốt tám tháng tiếp theo, anh dự tất cả các bài giảng, không bỏ sót một buổi thảo luận nào. Với sự giúp đỡ của Tiến sĩ Howard, anh tiếp tục học qua luôn hai kỳ nghỉ, càng làm cho anh thấy trong hai năm qua anh đã học hành ít đến mức nào. Anh bắt đầu ước giá mình đem cô Steadman theo, thay vì là chiếc MG, thì có phải hay biết bao.



Vào ngày thứ Hai, tuần thứ bảy của kỳ học cuối cùng, chỉnh tề trong bộ com lê đen, áo và cravát trắng, bên ngoài là áo choàng cùa sinh viên đại học, anh đến phòng thi. Trong năm ngày tiếp theo, anh ngồi ở chiếc bàn quy định, đầu cúi xuống, cố gắng trả lời được càng nhiều câu trong mười một bài thi càng tốt. Buổi chiều ngày thứ năm, khi bước từ phòng thi ra ngoài ánh nắng mặt trời, anh cùng các bạn ngồi ở bậc tam cấp của phòng thi, chạm ly sâm banh với khách qua đường, nếu ai muốn chia vui với họ.



Sáu tuần sau, Keith nhẹ người khi thấy tên mình đỗ loại ưu trong danh sách những người thi đỗ niêm yết ở phòng thi. Từ ngày hôm đó, anh không bao giờ cho lớp học biết anh đỗ loại gì, mặc dù anh phải đồng ý với Tiến sĩ Howard rằng tấm bằng đó không thích hợp lắm với cái nghề mà anh sắp bước vào.



Keith muốn trở về Úc ngay sau khi biết kết quả thi, nhưng cha anh không chịu. "Bố muốn con tới làm việc với bác Max Beaverbrook, bạn cũ của bố ở tờ Express", ông nói qua đường điện thoại cứ lạo xạo tuốt. "Trong sáu tháng, bác Beaver sẽ dạy con nhiều hơn những gì con học được ở Oxford trong ba năm".



Keith cố kiềm chế không nói với cha rằng điều đó cũng chẳng có gì ghê gớm lắm. "Điều con quan tâm trước hết là tình trạng sức khoẻ của bố. Con chẳng muốn ở lại Anh, nếu về nhà có nghĩa là con đỡ đần bố được phần nào".



"Chưa bao giờ bố khoẻ như lúc này, con ạ”, Hầu tước Graham nói. "Bác sĩ bảo bố gần như đã trở lại bình thường, và chừng nào bố không làm việc quá sức, thì bố còn sống lâu đấy. Về lâu dài, con sẽ giúp được bố nhiều nếu con học được nghề làm báo ở phố Fleet hơn là quay về quẩn chân bố. Bây giờ bố sẽ gọi ngay cho bác Beaver. Con nhớ trong ngày hôm nay gọi cho bác ấy".



Chiều hôm đó, Keith viết cho Hầu tước Beaver một lá thư và ba tuần sau ông chủ báo Express đồng ý tiếp con trai Hầu tước Graham mười lăm phút.



Keith đến ngôi nhà ở Arlington sớm mười lăm phút và đi đi lại lại bên nhà thờ Thánh James mấy phút trước khi bước vào một khối nhà đồ sộ. Anh phải đợi thêm khoảng hai mươi phút nữa truớc khi cô thư ký đưa anh vào gặp Hầu tước Beaverbrook trong một văn phòng rộng trông ra khuôn viên Thánh James.



"Cha cậu thế nào?" Đó là câu đầu tiên ông hỏi.



"Thưa ngài, cha tôi khoẻ!" Keith trả lời, vẫn đứng trước bàn vì chưa đuợc mời ngồi.



"Và cậu muốn nối nghiệp cha?” Ông già hỏi, ngước nhìn anh.



"Thưa ngài, vâng ạ".



"Vậy thì được rồi. Sáng mai đúng 10 giờ cậu có mặt tại Văn phòng của Frank Butterfield tại toà báo Express. Anh ta là phó Tổng biên tập cừ khôi nhất phố Fleet. Còn hỏi gì nữa không?”.



"Dạ thưa, không”.



" Tốt. Nhớ cho tôi gửi lời hỏi thăm cha cậu". Ông ta cúi đầu, có nghĩa là cuộc hội kiến kết thúc. Ba muơi giây sau, Keith xuống tới nhà thờ, tự hỏi không biết mình đã gặp hay chưa?



Sáng hôm sau, anh đến trình diện Frank Butterfield tại phố Fleet. Tay phó Tổng biên tập hình như không lúc nào ngừng chạy từ phóng viên này đến phóng viên khác. Keith cố theo cho kịp, và không lâu sau đó hiểu được tại sao ông ta lại những ba lần ly dị. Ít người đàn bà nào tỉnh táo mà lại có thể chấp nhận một lối sống như thế. Tối nào cũng vậy, chỉ trừ thứ Bẩy, Butterfield mang tờ báo vào giường và đó là một người tình không khoan nhượng.



Qua vài tuần, Keith phát chán vì cứ phải chạy theo Frank, ngày càng sốt ruột muốn biết một vấn đề lớn hơn là sản xuất và quản lý một tờ báo thế nào. Frank biết chàng thanh niên này đang sốt ruột bèn lên một chương trình kín hết thời gian. Anh sẽ làm việc ba tháng trong bộ phận lưu hành, ba tháng ở bộ phận quảng cáo và ba tháng nữa dưới xưởng in. Ở đó, anh thấy các thành viên nghiệp đoàn chơi bài trong khi lẽ ra họ phải đứng máy, hoặc sử dụng thời gian nghỉ để hoặc uống cà phê, hoặc đánh cá cược ở nơi gần nhất. Một vài người còn tới làm dưới hai ba tên, mỗi tên có một sổ lương riêng.



Tới khi đã ở toà báo Express được sáu tháng, anh bắt đầu tự hỏi có phải chất lượng của bài bình luận là tất cả những gì cần để ra được một tờ báo thành công? Liệu cha con anh có nên cứ sáng chủ nhật chỉ đọc kỹ mục quảng cáo trên tờ Courier thay vì đọc kỹ những gì in trên trang nhất? Và thay vì ngồi trong văn phòng của cha phê phán những tựa đề trên tờ Gazette, họ có nên suy nghĩ xem toà báo đang thừa nhiều nhân viên, hoặc chi phí của các phóng viên có vượt quá mức kiểm soát không? Cuối cùng, dù chỉ số phát hành có lớn đến mấy đi nữa, mục đích chính vẫn phải là thu hồi lại vốn đầu tư càng nhanh càng tốt. Anh thường thảo luận vấn đề này với Butterfield, người cho rằng những khuôn phép hình thành từ lâu ở đây khó mà đảo ngược được.



Keith viết thư về nhà thường xuyên và viết rất dài để diễn giải luận thuyết của mình. Giờ đây, khi cũng gặp phải rất nhiều vấn đề mà cha anh từng vướng mắc, anh bắt đầu sợ rằng những khuôn mẫu của nghiệp đoàn vốn phổ biến ở các toà báo của phố Fleet chẳng bao lâu nữa sẽ tìm đường qua Úc.



Cuối năm đầu tiên, Keith gửi một bản ghi nhớ dài tới ông Beaverbrook, mặc dù Frank Butterfield khuyên là không nên. Trong đó, anh nói rõ xưởng in của tờ Express sử dụng số công nhân nhiều hơn cần thiết tới ba lần, và trong khi tiền lương là số chi trả lớn nhất thì không hy vọng gì một nhóm báo chí lớn hiện đại có thể làm ăn có lãi. Trong tương lai, ai đó sẽ phải ra tay với nghiệp đoàn. Beaverbrook không nhắc gì đến báo cáo đó.



Không nản chí, Keith bắt đầu năm thứ hai tại tờ Express bằng việc dành thêm nhiều thời gian mà hồi ở Oxford anh đâu nghĩ là cần thiết. Việc này càng giúp củng cố quan điểm của anh là sớm muộn gì cũng phải có những thay đổi lớn trong ngành công nghiệp báo chí, và anh chuẩn bị một bản ghi nhớ sẽ thảo luận với cha khi trở về Úc. Trong đó, anh ghi rõ cần phải thay đổi những gì ở toà báo Courier và Gazette nếu muốn làm ăn có lãi trong nửa sau của thế kỷ XX.



Keith đang dùng điện thoại trong phòng của Frank Butterfield sắp xếp chuyến bay về Melbourne thì người đưa thư chuyển cho anh một bức điện.



(1) Những sòng bạc, trường đua ngựa.