Quyền Lực Thứ Tư
Chương 15 :
Ngày đăng: 15:13 19/04/20
Báo
EVENING CHRONICLE
Ngày 20 tháng Mười một, 1947
NGÀY NÀY HẠNH PHÚC:
CÔNG CHÚA ELIZABETH LỘNG LẪY
KẾT HÔN VỚI ÔNG HOÀNG THỦY THỦ
Charlotte quyết định không dự sinh nhật lần thứ sáu mươi của Arno Schultz vì nàng chưa cảm thấy tin tưởng khi giao con cho cô bảo mẫu người Đức. Từ khi nàng ở Lyon qua, Dick có vẻ chăm chút tới gia đình hơn, thỉnh thoảng còn về nhà đúng giờ để thăm con trước khi nàng cho nó ngủ.
Tối đó, sau bảy giờ, Armstrong đến nhà Arno. Anh hứa với Charlotte chỉ ghé qua, uống ly rượu mừng rồi về. Nàng mỉm cười, hứa khi anh về lúc 9 giờ thì bữa tối cũng đã chuẩn bị xong.
Anh vội vã qua thành phố, hy vọng nếu đến trước khi mọi người ngồi vào bàn ăn, anh có thể uống cốc rượu rồi đi. Như vậy, anh còn có thể chơi với Max Sackville vài ván bài trước khi về nhà.
Gần tám giờ Armstrong gõ cửa nhà Arno. Khi chủ nhà dẫn anh vào căn phòng đã đông người, anh thấy ngay là họ đang đợi anh để ngồi vào bàn. Arno giới thiệu anh với bạn bè; họ chào anh như vị khách danh dự.
Sau khi chủ nhân đưa anh cốc vang trắng rót từ chiếc chai mà mới trông đã biết ngay không phải rượu từ khu người Pháp, anh được dẫn vào một phòng ăn nhỏ, ngồi cạnh một người tự giới thiệu là Julius Hahn, còn Arno thì mô tả ông ta là "người bạn thân nhất và địch thủ ghê gớm nhất".
Armstrong đã nghe cái tên đó, nhưng không nhớ là ở đâu. Lúc đầu anh phớt lờ, tập trung vào đồ ăn trước mặt. Anh bắt đầu ăn súp mà không hiểu là súp gì thì Hahn hỏi anh về tình hình ở London. Anh nhanh chóng hiểu ra rằng người đàn ông Đức này hiểu London còn hơn anh rất nhiều.
"Tôi hy vọng không lâu nữa lệnh hạn chế ra nước ngoài sẽ bị bãi bỏ", Hahn nói. "Tôi rất cần trở lại đất nước của ngài".
"Tôi nghĩ cũng còn lâu lâu các nước đồng minh mới đồng ý như vậy", anh nói trong khi bà Schultz thay đĩa súp của anh bằng món bánh nướng nhân thịt thỏ.
"Thế tôi mới càng lo", Hahn bảo. "Tôi thấy ngày càng khó theo dõi hoạt động của một số công ty của tôi ở London". Lúc đó thì anh nhớ ra cái tên, và lần đầu tiên anh để dao dĩa xuống đĩa. Hahn là chủ bút tờ Der Berliner, tờ báo địch thủ trong khu vực của người Mỹ. Nhưng ông ta còn sở hữu những gì nữa?
"Tôi muốn gặp ông từ lâu”, Armstrong nói. Hahn có vẻ ngạc nhiên, bởi cho đến lúc này đại uý Armstrong không hề tỏ ra quan tâm đến ông. "Mỗi số Der Berliner in ra bao nhiêu?", Armstrong hỏi mặc dù đã biết, nhưng anh muốn Hahn tiếp tục nói chuyện trước khi anh ném ra câu mà anh thực sự muốn hỏi.
"Khoảng 260.000 một ngày. Và tôi sung sướng nói rằng nhật báo của chúng tôi ở Frankfurt cũng lại đã bán được trên 200.000 số".
"Ông có tất cả bao nhiêu tờ báo?" Armstrong làm vẻ vô tình hỏi, tay cầm lấy dao dĩa.
"Chỉ có hai. Trước chiến tranh thì có mười bảy tờ cùng một vài tạp chí chuyên mục khoa học. Nhưng tôi khó hy vọng lại có được ngần ấy số cho đến khi lệnh hạn chế được bãi bỏ".
"Nhưng tôi nghĩ trước chiến tranh, người Do thái, tôi cũng là người Do thái (Hahn lại một lần nữa ngạc nhiên) không được phép sở hữu báo chí cơ mà?"
"Đúng vậy, thưa đại uý Armstrong. Nhưng tôi bán toàn bộ cổ phần cho một đối tác không phải Do thái, và ngay sau khi chiến tranh vừa kết thúc, ông ta đã bán lại cho tôi với cái giá trước đây đã mua của tôi".
"Còn các tạp chí?", Armstrong hỏi, bắt đầu cắt miếng bánh đầu tiên. "Vào thời kỳ khó khăn này, chúng có lãi không?"
"Ô, có chứ. Về lâu dài, chúng là nguồn thu nhập đáng tin cậy hơn báo chí. Trước chiến tranh, công ty của tôi chiếm phần lớn trong các ấn phẩm khoa học của Đức. Nhưng ngay khi Hitler tiến vào Ba Lan, chúng tôi bị cấm không được xuất bản bất cứ thứ gì có thể có ích cho kẻ thù của Đế chế thứ ba. Tôi hiện đang ngồi trên đống tài liệu nghiên cứu khoa học của tám năm chưa được xuất bản, trong đó hầu hết là các tài liệu khoa học in ấn ở Đức trong thời gian chiến tranh. Giới xuất bản sẽ sẵn sàng trả rất nhiều tiền để có được những tài liệu đó, nếu tôi có được đầu ra.”
"Sao bây giờ ông không cho xuất bản đi?" Armstrong hỏi.
"Nhà xuất bản London trước đây ký hợp đồng với tôi không sẵn sàng chịu trách nhiệm phát hành cho tôi".
Đèn điện trên trần vụt tắt, một chiếc bánh thắp nến được để vào giữa bàn.
"Sao lại thế?" Armstrong hỏi, quyết không để câu chuyện gián đoạn trong khi Arno thổi nến và mọi người vỗ tay.
"Chuyện đáng buồn là người con trai duy nhất của ông Chủ tịch đã bị giết trong trận Dunkirk", Hahn nói trong khi người ta đặt vào đĩa của Armstrong miếng bánh ngọt to nhất. "Tôi viết thư tỏ ý chia buồn, nhưng ông ta không trả lời".
"Ở Anh còn có các nhà xuất bản khác", Armstrong nói, cắt bánh đưa lên miệng.
"Có, nhưng hợp đồng không cho phép tôi lúc này được tiếp cận các nhà xuất bản khác. Tôi cũng chỉ còn phải đợi một vài tháng nữa thôi. Tôi cũng đã quyết định nhà in nào ở London có thể đại diện cho tôi tốt nhất".
"Vậy à?" Armstrong hỏi, lau bánh dính ở miệng.
"Nếu ngài có thời gian, tôi sẽ dành một tiếng đưa ngài đi thăm các xưởng in của tôi".
"Chương trình của tôi lúc này hơi bận".
"Tất nhiên, tôi hiểu", Hahn nói.
"Nhưng lần sau có việc sang khu vực người Mỹ, có lẽ tôi sẽ ghé thăm ông".
"Xin mời ngài", Hahn nói.
Khi tiệc tan, Armstrong cám ơn chủ nhân về một buổi tối đáng ghi nhớ, và tính thời gian ra về đúng khi Julius Hahn cũng về.
"Hy vọng chúng ta còn gặp lại nhau", Hahn nói khi họ đi trên hè đường.
"Chắc chắn là như thế", Armstrong nói, bắt tay người bạn thân nhất của Arno Schultz.
Khi Dick về tới nhà lúc gần nửa đêm, Charlotte đã ngủ say. Anh thay quần áo, mặc bộ đồ ngủ, nhẹ chân leo cầu thang lên phòng David. Anh đứng bên nôi rất lâu, chăm chú nhìn con trai.
"Bố sẽ xây dựng cho con một vương quốc, mà một ngày nào đó con sẽ tự hào tiếp quản", anh thầm thì.
oOo
Sáng hôm sau, Armstrong báo cáo lên đại tá Oakshott việc anh đã dự sinh nhật lần thứ sáu mươi của Arno Schultz, nhưng không nói gì về cuộc gặp Julius Hahn. Oakshott báo cho Dick biết thiếu tá Forsdyke gọi điện nói muốn anh sang khu Nga một chuyến nữa. Armstrong hứa sẽ gọi cho Forsdyke, nhưng không nói thêm rằng anh dự định trước tiên là thăm khu vực của Mỹ.
"À Dick này. Sao tôi không đọc thấy bài báo của cậu về việc ta đối xử với người Đức thế nào trong các trại cải tạo nhỉ?" Đại tá hỏi.
"Không, thưa ngài. Tôi lấy làm tiếc phải nói rằng bọn chúng không chịu hợp tác. Tôi e rằng cuối cùng hoá ra chúng ta đã phí thời gian".
"Xin lỗi ngài”, cô thư ký đang ngồi gọi với theo, nhưng đã quá muộn. Armstrong đến cửa văn phòng trước khi cô ta đuổi kịp. Anh đẩy cửa bước vào.
Anh đứng chết lặng khi thấy người mà Tulpanov đang nói chuyện là ai. "Xin lỗi ngài", anh lắp bắp, vội vàng quay lui, suýt đâm sầm vào cô thư ký lúc đó đang chạy tới.
"Không sao đâu, Lubji". Tulpanov nói. "Anh ở đây với chúng tôi cũng được".
Armstrong quay người lại, đứng nghiêm chào. Anh cảm thấy mặt nóng bừng. "Thưa nguyên soái", viên thiếu tá KGB nói. "Tôi không nghĩ ngài đã gặp đại uý Armstrong, phụ trách Văn phòng Kiểm soát Dịch vụ thông tin và Quan hệ công cộng trong khu vực của Anh".
Armstrong bắt tay vị tổng chỉ huy khu vực của Nga, tiếp tục xin lỗi đã làm gián đoạn câu chuyện của ông, nhưng lần này bằng tiếng Nga. "Tôi rất vui được gặp anh", nguyên soái Zhukov đáp bằng tiếng Nga. "Nếu tôi không nhầm, tối nay tôi sẽ gặp anh trong bữa tiệc".
Armstrong tỏ vẻ ngạc nhiên. "Thưa ngài, tôi không nghĩ thế".
"Ô, đúng đấy. Sáng nay tôi đã xem danh sách khách mời. Tôi được hân hạnh ngồi cạnh vợ anh".
Sau đó là im lặng kéo dài, Armstrong quyết định không nói gì thêm. "Cám ơn ngài ghé thăm", Tulpanov nói, phá tan im lặng. "Và cám ơn ngài đã giúp giải toả sự hiểu lầm".
Thiếu tá Tulpanov hờ hững chào. Zhukov cũng nhạt nhẽo đáp lại, rồi đi không nói gì thêm. Sau khi cửa đã khép, Armstrong hỏi: "Trong quân đội Nga, nguyên soái thường tới thăm thiếu tá à?".
"Chỉ khi đó là thiếu tá KGB", Tulpanov mỉm cười nói. Mắt anh ta dán vào chiếc hộp. "Tôi thấy là anh đến chơi có mang theo quà tặng".
"Tôi không biết đó là cái gì", Armstrong nói, đưa cái hộp cho anh ta. "Chỉ thấy Forsdyke dặn đưa ngay tận tay cho anh".
Tulpanov cầm chiếc hộp, từ từ cởi dây, trông giống đứa trẻ mở hộp quà tặng nhân dịp Giáng sinh. Sau khi bỏ lớp giấy nâu gói ngoài, anh ta nhấc nắp hộp thì bên trong là một đôi giầy da hiệu Church màu nâu. Tulpanov ướm chân. "Vừa khít", anh ta vừa nói vừa nhìn mũi giầy bóng lộn. "Forsdyke có thể đúng là loại người mà anh bạn Max của anh gọi là đồ chó đẻ ngạo mạn, nhưng lại có thể rất hài lòng trong việc nhờ chọn lựa hàng hóa.”
"Vậy ra tôi chỉ là một anh chàng loong toong thôi sao?" Armstrong hỏi.
"Tôi đảm bảo với anh, trong quân đội Nga không có gì gọi chính xác hơn, Lubji ạ”.
"Tôi đã bảo Forsdyke, và tôi sẽ nói với anh...", Armstrong bắt đầu cao giọng. Nhưng anh dừng lại ở giữa câu.
"Tôi hiểu rồi”, thiếu tá KGB nói. "Như người Anh nói, hôm nay anh xuống phía giường không đúng".
Armstrong đứng trước mặt anh ta, tức run lên.
"Nói tiếp đi, Lubji. Hãy cho tôi biết anh đã bảo Forsdyke thế nào".
"Không có gì. Tôi không nói gì cả".
"Thế thì tôi lấy làm mừng", anh ta nói. "Bởi vì anh phải hiểu rằng tôi là người duy nhất anh có thể nói thật mọi chuyện".
"Tại sao anh dám cả quyết như thế?".
"Bởi vì, giống như Faust, anh đã ký hợp đồng với ma quỷ, Lubji ạ". Anh ta dừng lại. "Và cũng bởi vì tôi đã biết rõ cái mưu đồ nho nhỏ của anh để làm mất ổn định, một từ tiếng Anh diễn tả rất đúng ý định của anh, ông Julius Hahn".
Armstrong tựa như định phản đốỉ. Viên thiếu tá nhướng mày, nhưng anh lại không nói gì.
"Lẽ ra anh phải cho tôi biết bí mật đó ngay từ đầu, Lubji ạ", Tulpanov nói tiếp. "Lúc đó chúng tôi đã có thể giúp đỡ. Chúng tôi có thể ngừng cung cấp điện, ấy là chưa nói chuyện ngừng cung cấp giấy cho xưởng in của Hahn ở khu vực của Nga. Mà có lẽ anh cũng biết ông ta in toàn bộ các tạp chí trong một toà nhà cách nơi chúng ta đang đứng chỉ một tầm ném thôi. Giá như anh thổ lộ với chúng tôi, hẳn chúng tôi đã có thể thay đổi cách cá cược một ngàn đô la của đại úy Sackville.. một cách đáng kể".
Armstrong vẫn không nói gì.
"Nhưng có lẽ đó chính là cái anh đã định làm. Một ăn ba thì cũng được đấy, chừng nào một trong ba đó là tôi, Lubji ạ".
"Nhưng làm sao anh...".
"Lại một lần nữa anh đánh giá thấp chúng tôi, Lubji. Nhưng yên tâm đi, chúng tôi vẫn còn nghĩ đến anh mà".
Tulpanov bắt đầu đi về phía cửa. "Nhờ anh nói lại với Forsdyke khi gặp anh ta là đôi giầy vừa khít".
Rõ ràng anh ta không có ý định mời anh ở lại ăn trưa. Armstrong đứng nghiêm chào, rời văn phòng Tulpanov, trở về xe với nét mặt cau có.
"Der Telegraf", anh nói nhỏ.
Họ chỉ phải đợi ít phút ở vọng gác trước khi được phép vào khu vực của Anh. Khi Armstrong vào xưởng in của tờ Der Telegraf, anh ngạc nhiên thấy các máy in đang chạy hết công suất. Anh đi thẳng tới chỗ Arno đang kiểm tra các chồng báo mới.
"Sao vẫn còn in thế này?", Armstrong nói to, trong tiếng máy ầm ầm. Arno chỉ về phía văn phòng; cả hai không nói gì cho tới khi vào tới nơi.
"Anh không biết à?" Ông ta hỏi, chỉ tay mời Armstrong ngồi xuống ghế.
"Biết cái gì?".
"Tốì qua chúng ta bán được 350.000 số, mà họ vẫn còn muốn nữa".
"350.000 số mà họ vẫn còn muốn thêm! Có chuyện gì vậy?"
"Hai ngày qua Der Berliner không xuất hiện trên đường phố. Sáng nay Julius Hahn gọi đến, bảo điện của ông ta đã bị cắt bốn mươi tám tiếng rồi".
"Thật rủi ro quá thể", Armstrong nói, cố làm vẻ thông cảm.
"Tệ hơn nữa, ông ta còn mất nguồn cung cấp giấy thường xuyên từ khu vực của Nga. Ông ta muốn biết chúng ta có bị như thế không".
"Ông trả lời thế nào?”
"Tôi bảo chúng ta không bị rắc rối từ khi anh tiếp quản tờ báo", Amo trả lời. Armstrong mỉm cười đứng dậy.
"Nếu ngày mai họ cũng không ra báo", Arno nói khi Armstrong bắt đầu đi ra cửa, "chúng ta sẽ in ít nhất là 400.000 số".
Armstrong khép cửa và nhắc lại "Thật rủi ro quá thể”.