Quyền Lực Thứ Tư

Chương 8 :

Ngày đăng: 15:13 19/04/20


Báo



ST. ANDY



Ngày 12 tháng Chín, 1945



BÌNH MINH CỦA NƯỚC CỘNG HOÀ MỚI



"Hủy bỏ hệ thống huân chương", một tít lớn trong số thứ 3 của tờ St. Andy.



Theo ý kiến của tổng biên tập, hệ thống huân chương chỉ là cái cớ để một nhóm chính trị gia tự khen nhau và tặng cho bè bạn những danh hiệu mà họ không xứng đáng được nhận. "Huân chương hầu như được tặng cho những kẻ không xứng đáng. Cái lối tự tô vẽ mình đáng ghét này là một ví dụ nữa về những tàn dư của đế chế thực dân, cần phải xoá bỏ ngay khi có điều kiện. Chúng ta cần quẳng cái hệ thống đã lỗi thời này vào sọt rác của lịch sử.



Môt số học sinh viết thư cho Keith nói rằng cha chúng đã nhận tước phong, và những đứa hiểu biết hơn về lịch sử thì nói thêm rằng câu cuối của bài báo là ăn cắp ở một bài viết về một vấn đề khác có mục đích tốt hơn.



Keith không thể ghi lại được ý kiến của ông hiệu trưởng trong cuộc họp cuối tuần của giáo viên nhà trường, vì Penny không còn nói chuyện với cậu. Alexander Ducan và bạn bè công khai gọi cậu là kẻ phản bội. Mặc hết, Keith tỏ ra không quan tâm đến việc họ nghĩ gì.



Kỳ học tiếp tục, cậu bắt đầu tự hỏi liệu còn có khả năng bị hội đồng quân nhân gọi đến cho một suất học bổng ở Oxford hay không. Mặc dù chưa đâu vào đâu, cậu vẫn thôi làm cho tờ Courier, để tập trung thời gian vào học tập, cố gắng gấp đôi, khi cha cậu nói sẽ tặng một ô tô thể thao nếu cậu thi đỗ. Ý nghĩ phải chứng minh là ông hiệu trưởng nghĩ sai và có được chiếc xe là điều không cưỡng lại được. Cô Steadman, người vẫn tiếp tục phụ đạo cho cậu, nhiều đêm tới rất khuya, có vẻ sung sướng khi thấy phải cố gắng gấp đôi.



Khi Keith trở lại trường dự thi hết cấp, cậu cảm thấy đã sẵn sàng để đối mặt với cả giám khảo lẫn ông hiệu trưởng: số tiền quyên góp đến nay chỉ còn thiếu vài trăm bảng nữa là đạt mục tiêu năm ngàn. Keith dự định sẽ dùng số báo cuối cùng để thông báo thắng lợi. Cậu hy vọng việc này sẽ làm ông hiệu trưởng khó có thể làm gì về một bài báo mà cậu sẽ đăng trong số báo tới, kêu gọi xóa bỏ chế độ quân chủ.



“Nước Úc không cần một gia đình thượng lưu sống cách xa hàng ngàn dặm thống trị. Làm sao chúng ta bước qua nửa sau của thế kỷ XX mà vẫn còn giữ hệ thống đó? Hãy rũ bỏ tất cả bọn họ, cùng quốc ca, cờ Anh và đồng Bảng", bài báo kêu gọi. “Một khi chiến tranh kết thúc, chắc chắn sẽ đến lúc Úc tuyên bố mình là nước cộng hoà".



Ông Jessop vẫn im lặng, trong khi tờ Melbourne Age trả Keith 50 bảng để đăng lại bài đó, mà phải suy nghĩ mãi cậu mới có thể từ chối. Alexander Ducan nói toạc ra rằng một ngưòi rất gần gũi với ông hiệu trưởng đã bảo với cậu ta rằng sẽ rất ngạc nhiên nếu Keith Townsend còn trụ được đến cuối học kỳ.



Trong mấy tuần đầu của học kỳ cuối cùng, Keith dành phần lớn thời gian học bài, chỉ thỉnh thoảng mới gặp Betsy, và cứ thứ Tư của tuần lễ lẻ là đến trường đua trong khi những học sinh khác dùng thời gian dó làm những việc tốn nhiều sinh lực hơn.



Vào cái ngày thứ Tư đặc biệt ấy, lẽ ra Keith đã không đến trường đua nếu như không có một người trông chuồng ngựa cho biết một điều "chắc chắn". Keith cẩn thận kiểm tra tài chính của mình. Cậu vẫn còn dành dụm được một chút do làm việc trong ngày nghỉ, cộng thêm số tiền tiêu vặt mẹ cho. Cậu quyết định chỉ đặt cược trong cuộc đua đầu tiên, và nếu thắng sẽ trở về trường tiếp tục ôn bài và tự hứa sẽ vào thăm Betsy trên đường về trường.



"Điều chắc chắn" đó là con ngựa có tên Rum Punch, sẽ bắt đầu đua vào lúc hai giờ. Người nói với cậu có vẻ rất tin vào con ngựa của mình, đến nỗi Keith đặt hẳn năm bảng, một ăn bảy. Trước khi rào chắn được mở, cậu đã nghĩ tới chuyện sẽ sử dụng số tiền thắng cược thế nào.



Suốt chặng đua, Rum Punch dẫn đầu, song ở vòng cuối, một con khác chạy sát rào phía trong đã phóng lên ngang nó. Keith giơ cả hai tay lên trời khi hai con ngựa cùng phóng qua đích. Cậu đi lại phía bàn để nhận tiền thắng cược.



"Kết quả cuộc đua đầu tiên của buổi chiều sẽ công bố chậm một chút để xem lại ảnh chụp Rum Punch và Colombus lúc về đích", tiếng loa phóng thanh thông báo. Từ góc đứng của mình, Keith chắc chắn là Rum Punch đã thắng, nên không hiểu sao họ lại còn phải xem lại ảnh. Có lẽ để mọi người nghĩ các nhân viên làm việc nghiêm chỉnh, cậu nghĩ. Cậu nhìn đồng hồ và bắt đầu nghĩ đến Betsy.



"Sau đây là kết quả cuộc đua", tiếng loa oang oang, "về đích trước một đầu ngựa là Columbus, bốn ăn năm, và về sau là Rum Punch, một ăn bảy".



Keith chửi ầm lên. Giá như đặt cược hai chiều thì giờ đây cậu vẫn nhân đôi được số tiền của mình. Trên đường ra chỗ để xe đạp, cậu nhìn danh sách những con ngựa ở trong cuộc đua tiếp theo. Drumstick được lợi thế đứng ngay ở hàng đầu. Keith bước chậm lại. Trước đây cậu đã hai lần thắng khi đặt cược vào Drumstick, và rất có thể đây sẽ là lần thứ ba. Nhưng chỉ có vấn đề là cậu đã đặt toàn bộ số tiền mình có vào con Rum Punch mất rồi.



Tiếp tục đi về nhà để xe, cậu chợt nhớ mình có quyền rút tiền trong tài khoản có số dư là hơn ngàn bảng trong Ngân hàng Úc.



Cậu xem lại tên các con ngựa trong cuộc đua tiếp theo, thấy Drumstick khó có thể thua. Lần này cậu đặt cược hai chiều, mỗi chiều năm bảng, một ăn ba, để nếu Drumstick có về thứ ba, cậu cũng thu hồi dược vốn. Keith đẩy cửa xoay, lấy xe rồi đạp như bay đến ngân hàng cách đó một dặm. Cậu viết một cái séc mười bảng.



Vẫn còn mười phút trước khi bắt đầu cuộc đua thứ hai, vì vậy cậu yên tâm đủ thời gian lĩnh tiền rồi trở lại trường đua. Nhân viên ngân hàng nhìn người khách, xem rất kỹ tấm séc, rồi gọi điện cho chi nhánh ngân hàng của Keith ở Melbourne. Họ lập tức khẳng định ông Townsend có đủ tư cách ký séc lĩnh tiền từ tài khoản đó, và tài khoản vẫn có số dư cao. Vào lúc hai giờ năm mươi ba phút, nhân viên ngân hàng trao mười bảng cho chàng thiếu niên đang có vẻ sốt ruột.



Keith đạp xe trở lại với tốc độ mà chắc đội trưởng đội thể thao quốc gia phải có ấn tượng sâu sắc. Cậu đánh cược vào Drumstick và Honest Syd, mỗi con năm bảng. Khi rào chắn vừa nhấc lên, Keith vội vàng lao đến cạnh rào, kịp nhìn một đàn ngựa phóng qua mặt trong vòng đầu tiên. Cậu không tin vào mắt mình. Drumstick chắc xuất phát chậm, chạy mãi phía cuối trong vòng thứ hai, nên mặc dù đã cố gắng hết sức cũng chỉ về đích thứ tư.



Keith kiểm tra tên ngựa và tên kỵ mã của cuộc đua thứ ba và lại vội vàng trở lại ngân hàng, đứng hẳn người trên bàn đạp. Cậu yêu cầu được lĩnh chiếc séc hai mươi bảng. Lại một cú điện thoại, và lần này trợ lý giám đốc ngân hàng ỏ Melbourne đề nghị được nói chuyện trực tiếp với Keith. Sau khi đã xác định rõ nhân thân của Keith, ông ta đồng ý dể ngân hàng chi cái séc đó.
"Cậu vẫn nghe đấy chứ?", ông Adams hỏi.



"Vâng", Keith trả lời. "Cháu có thể giúp gì chú?" Cậu mừng vì Adams không thấy cậu đang run bần bật.



"Chú vừa đọc số mới nhất của tờ St. Andy, đặc biệt là bài của cháu về việc Úc cần phải tuyên bố thành lập nước cộng hoà. Bài viết rất hay và chú muốn cho đăng lại toàn văn trên tờ Sydney Morning Herald, nếu chúng ta có thể thỏa thuận được số tiền nhuận bút".



"Bài báo viết không phải để bán", Keith nói thẳng thừng.



"Chú nghĩ có thể trả cho cháu bảy mươi lăm bảng"



"Cháu chỉ đồng ý nếu chú trả cho cháu....".



"Trả cho cháu bao nhiêu?"



Tuần lễ trước khi dự thi tuyển vào Oxford, Keith trở về Toorak để cô Steadman phụ đạo thêm lần cuối. Họ cùng nhau ôn lại các câu hỏi, đọc các câu trả lời mẫu mà cô đã chuẩn bị. Cô chỉ không làm nổi có một việc: đó là giúp cho Keith cảm thấy thoải mái. Nhưng cậu không thể cho cô ta biết cậu căng thẳng không phải vì bài vở.



"Mẹ tin là con sẽ đậu", bà nói một cách tin tưởng trong bữa sáng chủ nhật.



"Con cũng hy vọng thế", Keith nói, biết chắc ngày hôm sau thì tờ Sydney Morning Herald sẽ đăng bài "Bình minh của nước Cộng hoà”. Nhưng đó cũng là buổi sáng cậu bắt đầu thi, vì vậy Keith chỉ hy vọng cha mẹ cậu hãy giữ lời khuyên ít nhất trong mười ngày tới và đến lúc đó có lẽ họ....



"Kể ra cũng khó đấy", cha cậu nói, làm gián đoạn ý nghĩ của cậu. " Bố tin là những lời nhận xét tốt của ông hiệu trưởng sau khi con đã hoàn thành xuất sắc việc quyên góp cho sân vận động của trường sẽ rất có ích cho con. À này ! Bố quên không nói là bà ngoại con, vì rất có ấn tượng với những cố gắng của con nên đã tặng vào tài khoản quyên góp của con một trăm bảng".



Lần đầu tiên mẹ Keith nghe con trai chửi thề.



Đến sáng thứ Hai, Keith thấy mình đã sẵn sàng đối mặt với giám khảo, và mười ngày sau, khi làm xong bài viết cuối cùng, cậu có ấn tượng sâu sắc là cô Steadman quả là đã “đoán” trước được biết bao câu hỏi. Cậu biết mình đã làm tốt bài Lịch sử và Địa lý, chỉ còn hy vọng ban giám hiệu trường Oxford không quá nhấn mạnh điểm thi môn Văn học cổ điển.



Cậu gọi điện cho mẹ để thông báo mình đã làm tốt các bài thi, và nếu cậu không được nhận vào Oxford thì chỉ có thể phàn nàn là đã không may mắn với các câu hỏi mà thôi.



"Mẹ có phàn nàn gì đâu”, mẹ cậu đáp ngay. "Nhưng mẹ có một lời khuyên, Keith ạ. Cố tránh mặt cha con một vài hôm nữa”.



Rõ ràng sau khi thi phải chờ đợi kết quả khá lâu. Trong thời gian chờ đợi, Keith dành thời gian quyên góp nốt cho sân vận động vài trăm bảng cuối cùng. Đôi lúc cậu ra trường đua đánh cược bằng tiền riêng của mình, một tối với vợ một nhà ngân hàng để cuối cùng bà này bỏ vào quỹ năm mươi bảng.



Vào thứ Hai cuối cùng của học kỳ, trong buổi họp hàng tuần, ông Jessop thông báo cho các giáo viên và nhân viên rằng trường Thánh Andrew tiếp tục truyền thống lớn lao của mình là gửi những học sinh giỏi nhất vào học tại Oxford và Cambridge, để giữ được mối liên hệ với hai trường đại học lớn. Ông đọc tên những người trúng tuyển:



Alexander, D.T.L.



Tomkins, C.



Townsend, K.R.



"Một thằng khốn nạn, một thằng mọt sách và một ngôi sao, nhưng không nhất thiết theo đúng thứ tự ấy", ông hiệu trưởng lẩm bẩm.



(1) George Washington: Tổng Thống đầu tiên của Hoa Kỳ



Phần II: Có lợi cho Victor