Quyền Lực Thứ Tư

Chương 7 :

Ngày đăng: 15:13 19/04/20


Báo



THE TIMES



Ngày 22 tháng Mười một, 1940



HUNGARY BỊ LÔI KÉO VÀO KHỐI TRỤC: BENTROP HUYÊNH HOANG "NHỮNG NƯỚC KHÁC SẼ NOI THEO "



Lubji nằm co quắp trên sân, tay ôm cằm. Tên lính vẫn chĩa lưỡi lê vào mặt cậu, hất hàm ra ý bảo phải cùng đám người leo lên những chiếc xe tải đang đợi.



Lubji tiếp tục phản đối bằng tiếng Hung, nhưng cậu biết là đã quá muộn. "Câm mồm đi, thằng Do thái", tên lính quát. "Nếu không, tao sẽ làm cho nó ngậm lại ngay tức khắc". Lưỡi lê cứa rách quần, rạch một đường khá sâu trên đùi phải của cậu. Lubji vội vàng khập khễnh chạy ra xe, nhập vào đoàn người ngơ ngác đáng thương chỉ giống nhau ở một điểm: họ bị nghi là người Do thái. Ông bà Ceranis bị ném lên xe ngay trước khi đoàn xe chầm chậm ra khỏi thành phố. Một giờ sau, họ đến sân nhà tù địa phương. Lubji và những người cùng đoàn bị xua vào chẳng khác gì súc vật.



Đàn ông phải xếp hàng, rồi được lùa qua sân vào một phòng rộng tường đá. Mấy phút sau, một thượng sĩ SS bước vào cùng hơn chục tên lính Đức. Hắn ra lệnh bằng tiếng Đức nghe như tiếng chó sủa. "Hắn bảo chúng ta phải cởi bỏ quần áo", Lubji thì thầm dịch ra tiếng Hung.



Mọi người cởi quần áo, sau đó bọn lính lùa những con người trần truồng ấy vào hàng. Người nào cũng run bần bật, một số thút thít khóc. Lubji đảo mắt nhìn quanh, cố xem có cách nào trốn được không. Chỉ có một cửa ra vào có lính đứng gác và ba cửa sổ nhỏ xíu mãi tít trên cao.



Mấy phút sau, một sĩ quan SS ăn mặc chỉnh tề bước vào, miệng ngậm điếu xì gà nhỏ. Hắn đứng giữa phòng và sau mấy câu chiếu lệ, thông báo mọi người hiện là tù binh. "Heil Hitler!", hắn hô rồi xoay người bước ra ngoài.



Lubji bước lên một bước, mỉm cười khi viên sĩ quan đi ngang. "Chào ngài", cậu nói. Viên sĩ quan dừng lại, nhìn chàng thanh niên với vẻ ghê tởm. Lubji bắt đầu giải thích bằng thứ tiếng Đức giả cầy là họ đã phạm một sai lầm chết người, sau đó mở lòng bàn tay để lộ ra xấp tiền pengốt của Hung.



Viên sĩ quan mỉm cười với Lubji, cầm tiền, rồi dùng điếu xì gà đốt luôn. Những tờ tiền giấy bắt lửa cháy cho đến khi hắn không còn cầm được nữa mới vất xuống chân Lubji và bỏ đi. Lubji chỉ còn nghĩ đến việc phải mất bao nhiêu tháng trời cậu mới dành dụm được số tiền đó.



Hàng người đứng run rẩy trong căn phòng đá. Lính gác không ngó ngàng tới họ; một vài thằng hút thuốc, những tên khác nói chuyện phiếm, tựa như những người trần truồng kia không tồn tại. Phải một tiếng sau mới có một nhóm người mặc áo choàng trắng, tay đeo găng cao su bước vào. Chúng đi ngược đi xuôi dọc theo hàng người, chỉ dừng lại vài giây kiểm tra dương v*t từng tù nhân. Ba người được lệnh mặc quần áo và được bảo có thể về nhà. Bằng chứng chỉ cần bấy nhiêu là đủ. Lubji tự hỏi với đàn bà, không biết họ kiểm tra thế nào.



Sau khi đám người bận áo choàng trắng ra khỏi, tù nhân được lệnh mặc quần áo, rồi được dẫn ra khỏi phòng. Khi đi ngang sân, Lubji ngó nghiêng tìm đường trốn, nhưng chỗ nào cũng có lính gác lưỡi lê tuốt trần đứng cách đoàn người chỉ vài bước. Họ được dẫn vào một hành lang dài, rồi bị lùa xuống những bậc thang bằng đá leo lét vài ngọn đèn ga. Cả hai phía là những phòng nhỏ lèn chặt người. Lubji nghe tiếng khóc lóc, nài xin bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, đến mức cậu không dám quay lại nhìn. Rồi bỗng nhiên cửa một phòng giam bật mở, cậu bị nắm cổ áo quẳng vào trong. Đầu cậu chắc sẽ đập xuống nền đá nếu cậu không rơi trên một đống người.



Cậu nằm im một lúc, rồi nhỏm dậy, cố nhìn những người xung quanh. Nhưng vì phòng chỉ có một cửa sổ nhỏ có song sắt, phải mất một lúc cậu mới nhìn rõ mặt người.



Một vị giáo sĩ đang đọc lời cầu nguyện, nhưng không có ai đọc theo. Lubji cố tránh sang bên vì một ông già nôn mửa hết lên người cậu. Cậu tránh chỗ bẩn, nhưng lại va ngay vào một người khác đang ngồi tụt quần. Cậu ngồi qua một góc, lưng quay vào tường để không bị bất ngờ nếu có ai túm cậu.



Khi cửa lại mở, Lubji không có cách nào biết mình đã ở trong phòng giam hôi hám đó bao lâu. Một tốp lính bước vào, soi đèn vào những cặp mắt đang chớp chớp. Nếu mắt họ không chớp, họ bị lôi ra hành lang và không ai còn gặp lại họ. Đó là lần cuối cùng cậu thấy ông Ceranis.



Ngoài việc nhìn ánh sáng, rồi bóng đêm qua cửa sổ nhỏ trên tường, chia nhau đồ ăn vất cho tù nhân, không còn cách nào để tính ngày tháng. Cứ vài giờ bọn lính lại đến mang người chết đi, cho tới khi chúng nghĩ chỉ còn những người khoẻ nhất sống sót. Lubji tin rồi cũng đến lượt cậu phải chết, vì đó là cách duy nhất thoát khỏi nhà tù nhỏ này. Mỗi ngày qua đi là mỗi ngày quần cậu lại lỏng thêm, và cậu phải thắt dần dây lưng lại mới chặt.



Một buổi sáng, bất ngờ đám lính ùa vào phòng giam, dồn tất cả những người còn sống ra ngoài. Họ được lệnh đi dọc hành lang, ngược cầu thang đá dẫn qua sân. Khi Lubji bước ra ánh nắng mặt trời, cậu phải lấy tay che mặt. Cậu đã ở trong phòng giam đó mười, mười lăm, mà có thể là hai mươi ngày, và mắc chứng mà những tù nhân khác gọi là "mắt mèo" - sợ ánh sáng.



Rồi cậu nghe tiếng búa nện thình thình. Cậu quay đầu nhìn sang trái: một toán lính đang dựng giá gỗ. Cậu đếm được tám chiếc thòng lọng. Cậu buồn nôn, nhưng trong bụng không có gì mà nôn. Lưỡi lê thúc vào hông, cậu vội vàng theo đám tù nhân đứng vào hàng, chờ lên những chiếc xe tải đã chật ních người.



Trên đường xe vào thành phố, một tên lính vừa cười vừa bảo chúng sẽ cho họ vinh dự được ra toà trước khi trở lại nhà tù và sẽ bị treo cổ từng người một. Hy vọng biến thành tuyệt vọng, vì một lần nữa Lubji nghĩ mình sắp chết. Lần đầu tiên trong đời, cậu không biết là mình còn quan tâm đến chuyện đó nữa hay không.



Những chiếc xe tải đỗ lại ngoài phòng xử án, tù nhân được dẫn vào bên trong. Lubji nhận thấy không còn lưỡi lê, và bọn lính đứng ngoài xa. Vào đến bên trong, tù nhân được phép ngồi trên những ghế băng bằng gỗ dọc theo hành lang sáng ánh đèn và được mấy lát bánh mỳ để trên khay sắt tây. Lubji bắt đầu nghi ngờ, lắng nghe bọn lính đang kháo chuyện nhau. Từ những câu nghe được, cậu biết bọn Đức đang tìm cách chứng minh tất cả dân Do thái đều là tội phạm, vì một quan sát viên của Hội chữ thập đỏ từ Giơnevơ tới đang có mặt trong phòng. Chắc chắn vị đó sẽ thấy không phải ngẫu nhiên tất cả tù nhân đều là người Do thái, Lubji nghĩ. Trước khi cậu có thể nghĩ ra cách tận dụng mẩu tin này, một tên hạ sĩ túm tay cậu lôi vào phòng.


Vài chiếc máy kéo, hai ô tô và một xe tải chạy qua trước khi một chiếc xe khác dừng lại. Cùng một câu hỏi, và cùng một câu trả lời.



"Tôi không tới đó, nhưng có thể cho cậu đi nhờ một đoạn", người lái xe nói.



Một chiếc ô tô, hai xe tải, ba xe ngựa và vô khối xe máy đã giúp Lubji hoàn thành chuyến đi ba ngày tới Dubrovnik. Tới lúc đó, Lubji đã ăn hết chỗ đồ ăn mà vợ ông nông dân cho và cũng biết thêm làm thế nào để kiếm được tàu ở Dubrovnik giúp cậu thoát khỏi bọn Đức.



Xuống xe ở vùng ngoại vi cảng biển tấp nập, Lubij chỉ cần vài phút cũng thấy ngay những lo sợ của ông nông dân là hoàn toàn chính xác. Nhìn chỗ nào cậu cũng thấy người ta đang cuống cuồng trước cuộc xâm lược hiển nhiên của bọn Đức. Lubji không có ý định chờ đón chúng lần thứ hai, ở thành phố nước ngoài này.



Đây là thành phố mà cậu không định bị bắt khi còn đang ngủ.



Thẹo lời khuyên của bác nông dân, cậu đi đi lại lại trên cầu tầu hai tiếng liền, cố đoán xem tàu nào từ cảng nào đến và chúng sẽ đi tiếp đâu. Cuối cùng cậu thu lại trong ba chiếc, nhưng vẫn không có cách nào biết được khi nào nó rời bến và sẽ đi đâu. Mỗi khi nhác thấy bóng người mặc quân phục, cậu biến nhanh vào những ngõ hẻm chạy dọc theo bến, và có lần chui cả vào một quán rượu đông nghịt mặc dù không có xu nào trong túi.



Cậu lẻn vào một góc khuất nhất trong quán, hy vọng không ai nhìn thấy và bắt đầu nghe lỏm những câu chuyện bằng đủ các thứ tiếng của những người ngồi quanh. Cậu nghe được những tin như kiếm gái ở đâu, tàu nào trả lương cho thợ đốt lò cao nhất, thậm chí cả việc muốn xăm hình Neptune giá hạ thì đến chỗ nào. Nhưng trong tất cả những tiếng ồn ào ấy, cậu biết được chiếc tàu vừa cặp bến tên là tàu Arridin, bốc xong hàng nó sẽ rời bến ngay. Nhưng cậu không biết nó sẽ đến nước nào.



Một thuỷ thủ cứ nhắc đi nhắc lại hai tiếng "Ai Cập" và Lubji nghĩ ngay đến thánh Moise cùng miền đất hứa.



Cậu luồn ra ngoài, trở lại cầu tầu. Lần này cậu cẩn thận kiểm tra từng tàu một, cho đến khi gặp một nhóm người đang bốc hàng lên một tàu chở hàng nhỏ chạy bằng hơi nước, bên mạn có ghi chữ Arridin. Lubji nhìn lá cờ rũ xuống trên đỉnh tầu. Vì không có gió nên cậu không biết được tầu của nước nào. Nhưng cậu biết chắc một điều: lá cờ không có hình chữ thập ngoặc của bọn Quốc xã.



Lubji đứng né sang bên nhìn những ngưòi phu khuân vác còng lưng mang những bao tải nặng trên vai, đi qua tấm ván dùng làm cầu, rồi vứt những bao đó qua một lỗ hổng ở giữa sàn tầu. Người đốc công đứng ngay đầu cầu ván, mỗi chuyến hàng qua lại gạch một cái vào sổ. Thỉnh thoảng hàng người lại có khoảng trống vì họ đi nhanh chậm khác nhau. Lubji kiên nhẫn chờ đến đúng lúc cậu có thể luồn vào hàng mà không bị phát hiện. Cậu thong thả bước tới, giả vờ như người qua đường, rồi đột nhiên cúi xuống, xốc một bao tải lên vai đi về phía tàu, giấu mặt sau bao hàng khi qua chỗ người đốc công. Lên đến sàn tầu, cậu ném bao hàng xuống lỗ.



Lưbji làm lại vài lần, mỗi lần đi cậu lại biết thêm một chút về cách bố trí trên tầu. Một ý nghĩ bắt đầu thành hình trong đầu. Sau khoảng hơn chục lần mang vác như thế, cậu thấy mình có thể đi nhanh lên sát ngay sau ngưòi đi trước và cách người đi sau khá xa. Khi đống hàng trên bến vơi dần, Lubji hiểu rằng cậu không còn nhiều cơ hội. Phải chọn đúng thời điểm.



Cậu xốc một bao nữa lên vai. Lát sau cậu đã đuổi kịp người đi trước; người này vất bao tải vào lỗ rồi trở lại cầu ván. Khi đến sàn tầu, cậu ném bao tải xuống lỗ, rồi không nhìn lại, ngay lập tức nhảy theo xuống, rơi người trên một đống bao. Cậu phóng vội vào góc xa nhất, phập phồng lo sợ có ai đó kêu lên rồi nhảy theo cứu cậu. Nhưng chuyện ấy đã không xảy ra.



Lubji tìm một vị trí khuất để nếu có ai ngó vào không thấy được cậu, đồng thời để tránh bao tải rơi vào đầu. Song nếu cứ như vậy thì chắc là sẽ chết ngạt, vì vậy cứ sau mỗi bao tải ném xuống, cậu lại ngoi đầu lên thở. Đến chiếc bao cuối cùng, Lubji không những thâm tím hết cả mình mẩy, mà còn ngáp liên tục bởi hụt hơi.



Khi nắp hầm sập xuống, Lubji cuống cuồng tìm đường trèo lên đỉnh đống bao tải để có thể ghé miệng vào cái khe nhỏ của tấm nắp mà thở.



Cậu nghe thấy tiếng máy tầu ở khoang dưới bắt đầu hoạt động. Mấy phút sau, cậu thấy con tàu lắc lư dịch chuyển. Cậu nghe tiếng người trên boong và thỉnh thoảng là tiếng chân bước ngang trên đầu. Khi con tầu đã ra khỏi cảng, nó không còn lắc lư nhè nhẹ mà nghiêng ngả mạnh hơn. Lubji ngồi lọt giữa hai bao tải, mỗi tay bám chắc một bên để khỏi bị quăng đi quật lại.



Cả cậu lẫn đống bao cứ chạy từ bên nọ sang bên kia trong hầm tầu, đến nỗi cậu chỉ những muốn hét lên kêu cứu, nhưng lúc này trời đã tối, cậu nghĩ có kêu cũng chẳng ai nghe thấy.



Cậu không biết tầu đã chạy bao ngày khi thấy tiếng xích neo chạy rèn rẹt. Rồi cậu thấy nắp hầm mở ra, ánh sáng ùa vào cùng nhiều thứ tiếng nói lạ hoắc. Cậu nghĩ chắc là tiếng Ai Cập và tạ ơn Chúa bởi nó không phải là tiếng Đức. Cuối cùng nắp hầm được nhấc lên, hai người lực lưỡng ghé mắt nhìn xuống.



"Trời ơi! Cái gì thế này?” Một người hét lên khi thấy Lubji giơ cao hai tay lên trời.



"Gián điệp Đức chứ không sai", người kia cười hô hố, nói tiếp rồi nắm cánh tay Lubji kéo lên như kéo một túi hàng. Lubji ngồi trước mặt họ, chân duỗi dài, miệng thở dốc, chờ đợi bị tống vào nhà giam ở một nước nào đó.



Cậu ngước nhìn mặt trời buổi sáng, mắt chớp chớp. "Tôi đang ở đâu thế này?" Cậu hỏi bằng tiếng Tiệp. Nhưng đám phu khuân vác tỏ ra không hiểu. Cậu thử bằng tiếng Hung, tiếng Nga và miễn cưỡng dùng cả tiếng Đức, nhưng họ vẫn chỉ nhún vai cười. Cuối cùng họ nhấc bổng cậu lên, điệu dọc theo tàu, không cố hỏi han cậu bằng thứ tiếng nào nữa.



Chân Lubji chưa kịp chạm đất thì họ đã đưa cậu lên bến. Sau đó họ đưa cậu về phía ngôi nhà trắng ở phía bên kia bãi hàng. Phía trên cửa là hàng chữ in chẳng có nghĩa gì đối với cậu bé nhập cư trái phép : Cảnh sát cảng Liverpool, Anh.