Resident Evil 1 - Âm Mưu Của Tập Đoàn Umbrella

Chương 9 :

Ngày đăng: 09:31 18/04/20


Dịch giả: Seraphy, GtaMaster, Jr, Hoa Thần, JediDarkLord



Caw!!!



Jill vội chĩa súng vào nơi phát ra tiếng động. Tiếng kêu ghê rợn ấy vang lên khắp căn phòng rộng lớn. Và sau đó, cô phát hiện ra nguồn gốc của tiếng động và thở phào. Chỉ là một cánh của bị sập lại.



“Chúng đang làm cái quái gì ở đây vậy?”



Jill vẫn đang ở mạn đằng sau của tòa nhà. Cô quyết định sẽ kiểm tra thêm một vài căn phòng nữa trước khi quay trở lại đại sảnh chính. Căn phòng đầu tiên cô thử vào đã bị khóa, có hình chiếc mũ sắt được chạm khắc bên ổ khóa. Bộ đồ phá khóa của cô không có tác dụng trong tình huống này, vì đây là một loại khóa kỳ lạ mà cô chưa từng thực tập bao giờ, vì thế Jill quyết định sẽ thử cánh cửa bên kia căn phòng. Cô mở cửa một cách dễ dàng, bước vào, sẵn sàng cho mọi điều có thể xảy ra. Và thật là hài hước, thứ mà cô đang "mong đợi" là những con quạ đen đúa đang bám mình vào những xa ngang chạy dọc căn phòng và đập cánh liên hồi.



Một con quạ lớn rú lên kinh dị, tiếng rú của nó khiến Jill cảm thấy rùng mình. Có cả tá con đang xù bộ lông đen bóng và quan sát cô với những cặp mắt lấp lánh, và cô nhanh chóng cảm thấy mối đe dọa toát ra từ căn phòng.



Căn phòng hình chữ U mà cô bước vào là một nơi lạnh lẽo như những nơi còn lại trong tòa nhà, có thể còn lạnh lẽo hơn, và trống trơn. Đó là một căn phòng trưng bày với những bức chân dung và tranh vẽ treo xung quanh tường. Trên sàn vung vãi những sợi lông chim, một minh chứng cho thấy lũ quạ đã xâm nhập được vào tòa nhà, và Jill đang băn khoăn vì sao. Có điều gì rất lạ với vẻ ngoài của chúng Chúng to lớn một cách khác thường, và ánh mắt chúng dành cho cô có vẻ gì đó thật nham hiểm và độc ác.



Jill lại rùng mình, rồi cô quay lại cánh cửa. Không có gì ở đây cho cô cả, và cần phải tiếp tục cuộc chơi; cuộc chơi của tử thần. Cô chợt để ý đến những bức tranh và nhận thấy có những cái công tắc ở bên dưới mỗi khung tranh - cô đoán đó là công tắc đèn, mặc dù cô không thể tưởng tượng rằng kẻ nào lại có thể xây dựng một phòng tranh với những bức tranh tầm thường đến vậy. Một đứa bé, một chàng trai trẻ... những bức tranh ấy không thực sự tồi tệ, nhưng chúng cũng không đáng để ý đến.



Cô dừng lại khi chạm vào cái tay nắm lạnh ngắt của cánh cửa, khẽ cau mày. Có một cái bảng điều khiển nhỏ ngang tầm mắt phía bên phải, bên dưới là dòng chữ "Vùng sáng". Cô bấm vào một trong những cái nút và căn phòng chìm vào trong bóng tối.



Một vài con quạ kêu lên giận dữ, đập cánh ầm ĩ. Jill bật lại đèn và suy nghĩ.



“Nếu như đây là công tắc đèn, thì những cái công tắc bên mỗi bức tranh ấy có tác dụng gì...?”



Có lẽ có những thứ khác trong căn phòng này mà cô chưa khám phá ra. Jill tiến tới gần bức tranh đầu tiên. Đây là một bức tranh lớn có hình một thiên thần vẫy cánh bay qua những áng mây được tô điểm bằng một vài ánh mặt trời le lói. Tựa đề của nó là: Từ trong nôi đến hầm mộ. Ở bên dưới bức tranh không có cái công tắc nào, do vậy Jill liền chuyển sang bức tranh tiếp theo.



Đây là bức chân dung của một người đàn ông trung niên đứng bên một cái lò sưởi khá tinh xảo, nét mặt của ông phảng phất sự mệt mỏi đến tột cùng. Dựa vào cách ăn mặc của ông, có vẻ như bức tranh này được vẽ vào khoảng những năm 40-50. Chỉ có một cái công tắc bên dưới bức tranh và chẳng có cái nhãn nào hết. Jill gạt công tắc và có tiếng điện nổ lách tách đằng sau lưng, lũ quạ trên xà ngang đồng loạt phát ra những tiếng kêu inh ỏi.



Trong tích tắc cô nghe thấy tiếng phần phật phát ra từ những đôi cánh đen sì, kèm theo đó là những tiếng kêu dữ tợn bất thường khi lũ quạ lao thẳng vào cô. Jill vội chạy thật nhanh về phía cánh cửa, cảm thấy con đường như xa tới ngàn dặm. Một con quạ đã bắt kịp khi cô vừa chạm vào tay nắm cửa. Móng vuốt của nó vạch một đường lên làn da mềm mại sau gáy của cô. Jill thấy tai phải mình đau buốt, đồng thời nhận ra một mớ lông vũ đang cọ vào hai bên mặt, tiếng kêu điên loạn của nó dội vào màng tai của cô. Jill quật mạnh vào khoảng không phía sau và ngạc nhiên khi nghe thấy những tiếng quạc quạc. Con chim đã bị cô đánh văng ra xa.



Nhiều quá, ra mau, mau, mau!



Jill giật mạnh cánh cửa, chạy nhanh ra ngoài hành lang và đóng sập nó lại. Cô ngồi bẹp xuống một lúc, điều hòa hô hấp, tận hưởng sự im ắng lạnh giá của hàng lang bất chấp cái mùi hôi thối của lũ Zombie. May mà không có con quạ nào thoát ra khỏi căn phòng.



Khi nhịp tim đã trở lại bình thường, cô ngồi lên và cẩn thận sờ vào vết thương sau tai. Cô cảm thấy ngón tay của mình ươn ướt, nhưng không có gì nghiêm trọng, máu đã bắt đầu đông lại rồi; thật là may mắn. Nếu lúc nãy cô bị vấp ngã thì …



“Tại sao chúng lại tấn công, có chuyện gì với cái công tắc nhỉ?”



Jill chợt nhớ đến tiếng điện lách tách sau lưng mình khi cô vặn công tắc, tiếng của một tia lửa điện....



“Thanh xà ngang!”



Thâm tâm cô dậy lên một mối khâm phục bất đắc dĩ với kẻ đã tạo ra cái bẫy đơn giản này. Khi cô khởi động công tắc, có một dòng xung điện đã được truyền tới những thanh sắt mà chúng đậu lên. Cô chưa bao giờ nghe đến những con quạ được huấn luyện để chiến đấu, nhưng có lẽ đó là lời giải thích hợp lý nhất hiện tại. Ai đó đã cài cái bẫy này để giấu đi một thứ gì đó trong căn phòng.... Và nếu Jill muốn biết thứ ấy là gì, cô buộc phải quay lại căn phòng.



“Mình có thể cố thủ ở hành lang này và hạ từng con một khi chúng bay ra...”



Thế nhưng, cô không nghĩ đây là cách hiệu quả. Cô không còn tin vào khả năng ngắm bắn của mình nữa, và chắc chắn cô sẽ hao phí rất nhiều đạn.



“Chỉ có kẻ ngốc mới trông chờ vào sự ngẫu nhiên và không làm gì cả; hãy động não đi, Jilly...”



Jill mỉm cười, nhớ lại quãng thời gian ở cùng cha… Đó là lời khuyên của ông dành cho Jill trước khi cô gia nhập S.T.A.R.S. Ông đã dạy cho Jill rất nhiều điều trong căn nhà ông thuê ở Massachussetts để huấn luyện riêng cho cô. Học làm bạn với bóng tối, hòa mình với sự vật xung quanh, huấn luyện cho Jill hơn 10 năm về nghiệp vụ và ông đã dặn rất kỹ: mọi lối mòn đều có cách xử lý, và luôn có nhiều hơn một câu trả lời.....
Câu nói của hắn khiến Barry trở nên hoang mang, tay anh run lên vì sợ hãi.



“Kathy, lũ trẻ - mình...”



"Mày định lừa tao đấy hả", anh nói khẽ và nụ cười của Wesker cuối cùng cũng biến mất, mặt hắn trở lại cái vẻ khó đoán như mọi khi.



"Tôi lừa anh làm gì", giọng hắn lạnh lẽo, "Không tin thì anh cứ thử giết tôi xem. Rồi sau này anh sẽ tha hồ mà sám hối trước bia mộ của gia đình mình."



Mất một lúc, cả hai đứng tại chỗ, sự yên tĩnh như có thể sờ thấy được lan tỏa khắp không gian lạnh lẽo. Sau đó Barry từ từ nhả cò súng trở lại rồi hạ vũ khí, vai anh sụp xuống. Anh không thể mạo hiểm như thế được, gia đình đối với anh là tất cả.



Wesker gật đầu rồi lục túi rút ra một chùm chìa khóa, cử chỉ của hắn đột nhiên trở nên sôi nổi một cách rất kịch.



"Có bốn cái huy hiệu được cất ở đâu đó trong ngôi nhà này. Mỗi miếng to bằng cái tách trà, và được chạm khắc ở mặt bên hình: mặt trời, mặt trăng, những vì sao và gió. Và cánh cửa sau ở phía còn lại của ngôi nhà chính là nơi anh có thể đặt cả bốn miếng này vào".



Hắn tháo lấy một chiếc từ chùm chìa khóa rồi đưa cho Barry.



"Cái chìa này có thể mở tất cả các cánh cửa ở phía còn lại của ngôi nhà, hay ít nhất thì nó cũng có thể mở những cánh cửa quan trọng ở tầng một và tầng hai. Anh hãy tìm những huy hiệu đó cho tôi và rồi vợ con anh sẽ được an toàn."



Barry nhận lấy cái chìa khóa mà mấy ngón tay anh tê cóng, anh chưa bao giờ cảm thấy yếu đuối và sợ hãi như lúc này.



"Chris và Jill..."



"... sẽ không nghi ngờ gì khi giúp anh tìm kiếm mấy miếng đồng. Nếu anh thấy ai trong số họ thì hãy bảo rằng cánh cửa sau mà anh vừa mới phát hiện ra có lẽ là một trong những con đường thoát ra ngoài. Tôi dám chắc là họ sẽ rất vui mừng được làm việc cùng với một người bạn đáng tin cậy như anh Barry tốt bụng đây. Thực tế, tôi nghĩ anh nên mở khóa tất cả các cánh cửa anh có thể mở được để việc tìm kiếm thuận tiện và kỹ càng hơn."



Wesker lại cười, kiểu cười nửa miệng ra vẻ thân thiện của hắn hoàn toàn trái ngược với những lời mà hắn nói. "Tất nhiên, nếu anh nói với họ là anh đã gặp tôi thì chỉ làm vấn đề trở nên rắc rối. Chẳng may mà tôi có bị sao đó, giả dụ như bị bắn trúng lưng chẳng hạn thì... mà thôi, nói vậy đủ rồi. Cứ như coi đây là bí mật giữa hai ta nhé."



Chiếc chìa khóa được chạm khắc một hình vẽ nhỏ, phần bảo vệ khoang ngực của một bộ áo giáp sắt. Barry thả nó vào túi.



"Anh định sẽ đi đâu?"



"Ồ, anh đừng lo, tôi sẽ ở xung quanh thôi. Lúc nào cần thì tôi sẽ liên lạc với anh."



Barry nhìn Wesker, anh không thể nào ngăn nổi sự sợ hãi lẫn van xin khi anh nói "Anh sẽ nói với họ là tôi đang giúp anh, đúng không? Anh sẽ không quên báo cáo lại đấy chứ?"



Wesker quay lưng lại và bước về phía thang máy, nói vọng lại:



"Tin tôi đi, Barry. Cứ làm những gì tôi bảo, anh sẽ không phải lo lắng gì hết."



Tiếng cửa thang máy mờ ra rồi đóng lại lách cách, Wesker đã đi rồi.



Barry đứng ngây ra mất một lúc, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng không nơi Wesker vừa ở đấy, cố tìm cách thoát khỏi những lời hăm dọa của hắn. Nhưng vô ích. Không có chuyện đắn đo giữa danh dự của anh và gia đình anh; anh vẫn có thể sống mà không có danh dự.



Anh cắn răng, bước trở lại dãy hành lang, quyết định sẽ làm những việc anh phải làm để cứu Kathy và lũ trẻ. Tuy nhiên, khi mà chuyện này kết thúc, khi mà anh có thể chắc chắn rằng gia đình mình đã an toàn.



“Thì không có cửa cho mày trốn thoát đâu, thưa "Đội trưởng".”



Barry nắm chặt nắm đấm, các đốt ngón tay anh trắng bệch, anh thề sẽ bắt Wesker phải trả giá cho những gì hắn đang làm. Cả vốn lẫn lãi.