Resident Evil 1 - Âm Mưu Của Tập Đoàn Umbrella

Chương 10 :

Ngày đăng: 09:31 18/04/20


Dịch giả: Seraphy, GtaMaster, Jr, Hoa Thần, JediDarkLord



Jill đẩy chiếc huy hiệu bằng đồng đỏ nặng trịch có khắc hình ngôi sao ở bên cạnh vào đúng vị trí của nó - vị trí trên cùng trên tấm bảng kim loại. Nó trượt vào lỗ nghe "cách" một cái, bề mặt tấm bảng kim loại lại trở nên bằng phẳng.



“Một cái đã vào vị trí...”



Cô bước lùi lại trước cái khóa kỳ lạ, mỉm cười hân hoan.



Lũ quạ vẫn quan sát cô khi cô đi ngang qua cái sảnh trưng bày tranh, chúng không hề rời khỏi vị trí, thi thoảng chúng lại kêu ré lên trong lúc cô đang giải câu đố đơn giản. Có sáu bức chân dung tất cả, từ cái nôi đến ngôi mộ - tức là từ đứa bé sơ sinh tới người đàn ông lớn tuổi có bộ mặt nghiêm nghị. Cô cho rằng tất cả những bức tranh chân dung đó là của Ngài Spencer, mặc dù cô chưa từng nhìn thấy bức ảnh nào của ông.



Bức tranh cuối cùng vẽ một khung cảnh thật tang thương, một người đàn ông xanh xao đang nằm trang trọng giữa những người than khóc đứng đầy xung quanh. Khi cô bật công tắc ở bức tranh đó, bức tranh liền bị bốn cái chốt nhỏ xíu bằng kim loại ở bốn góc đẩy cho rơi xuống khỏi bức tường. Đằng sau bức tranh có một cái hốc nhỏ, bọc nhung, trong đựng chiếc huy hiệu bằng đồng đỏ. Sau đó, cô đã rời khỏi căn sảnh mà không gặp phải bất cứ khó khăn gì; trừ một điều cô không chắc lắm là liệu lũ chim có cảm thấy thất vọng hay không.



Cô hít một hơi cuối cùng thật sâu cái không khí dễ chịu buổi đêm trước khi quay trở lại ngôi nhà, vừa đi cô vừa rút chiếc máy tính của Trent ra khỏi ba lô. Cô bước từng bước một cách thận trọng qua cái xác nhàu nát nằm giữa hành lang mờ tối, rồi cô kiểm tra lại tấm bản đồ, băn khoăn không biết nên đi đâu tiếp theo.



Có vẻ như là cô sẽ phải trở lại con đường mà cô đã dùng để đi đến đây. Cô quay về cánh cửa đôi nối giữa dãy hành lang và thấy mình bước vào một hành lang uốn khúc, ấm áp, màu xanh xám với những bức tranh phong cảnh treo trên tường. Theo như tấm bản đồ thì cánh cửa đơn ngang chỗ cô đứng sẽ dẫn tới một căn phòng nhỏ hình vuông, và sau đó căn phòng này sẽ dẫn đến một căn phòng khác lớn hơn.



Hồi hộp, cô vặn tay nắm cửa rồi đẩy nó mở ra, vừa khom người vừa chĩa khẩu Beretta xung quanh. Quả thật căn phòng nhỏ có hình vuông và hoàn toàn trống rỗng.



Jill bước ngang qua căn phòng, cô tiến tới cánh cửa phía bên phải, vừa đi vừa ngắm nghía những đường nét đơn giản nhưng thanh lịch của căn phòng. Nó có một cái trần cao, sáng sủa với những bức tường ốp đá cẩm thạch màu kem lốm đốm vàng; tuyệt đẹp. Và thật đắt tiền, ít nhất cô có thể nói như vậy. Tự nhiên, cô cảm thấy bâng khuâng nhớ lại những ngày tháng cũ khi cô còn sống với bố cô, nhớ lại những kế hoạch và hy vọng to lớn của hai cha con mỗi khi họ thành công. Và đây là thứ mà đồng tiền chân chính có thể mua được.



Cô đã chuẩn bị tinh thần sẵn sàng, cô nắm lấy cái then cửa kim loại lạnh lẽo rồi đẩy nó mở ra. Khẩu Beretta quét nhanh một đường và rồi cô thở phào nhẹ nhõm; chỉ có mình cô ở đây.



Có một cái lò sưởi mốc meo phía bên tay phải, ngay dưới tấm thảm thêu hoa mỹ màu đỏ vàng. Một chiếc ghế tràng kỷ hiện đại cùng chiếc bàn uống cà phê thấp hình bầu dục đặt trên tấm thảm kiểu phương Đông rám nắng màu da cam, và dựa vào bức tường phía sau căn phòng - là một khẩu shotgun pump - action, được đặt trên hai cái móc, sáng lấp lánh dưới ánh sáng của cái đèn kiểu cổ đang chiếu thẳng xuống từ phía trên. Jill nhoẻn miệng cười, cô vội bước ngang qua căn phòng và không thể tin rằng mình lại gặp may đến thế.



“Cầu trời cho nó nạp đầy đạn, cầu trời cho nó nạp đầy đạn.”



Khi cô dừng lại trước khẩu shotgun, cô nhận ra khẩu súng này tuy hơi nặng đối với cô, nhưng nó lại cùng loại với những khẩu shotgun mà đội S.T.A.R.S. thường dùng: loại Remington M870, bắn 5 phát liền.



Cô cất khẩu Beretta đi rồi dùng hai tay nâng khẩu shotgun lên, miệng vẫn cười tươi - nhưng ngay lập tức nụ cười của cô biến mất khi thấy cả hai cái móc được nhấc lên sau khi thoát khỏi trọng lượng của khẩu súng. Cùng lúc đó, một tiếng động ầm ĩ phía sau bức tường phát ra, nghe như tiếng kim loại đang hoán đổi vị trí cho nhau.



Jill không biết tiếng động đó là gì, nhưng cô cảm thấy không thích nó một chút nào. Cô nhanh chóng quay lưng lại, kiểm tra quanh phòng xem có cái gì di chuyển không. Căn phòng vẫn nguyên xi như lúc cô bước vào, không hề có lấy một tiếng chim gào thét, cũng không có tiếng báo động hay ánh đèn lóe sáng đột ngột, và cũng chẳng có bức tranh nào rơi khỏi mấy bức tường cả. Nói chung là không có cái bẫy nào hết.



Yên lòng, cô nhanh chóng kiểm tra lại khẩu súng và thấy rằng nó đã được nạp đầy đạn. Ai đó đã lau chùi nòng súng sạch sẽ, cả khẩu súng bốc lên mùi dầu nhẹ, và đó là cái mùi tuyệt nhất mà cô có thể tưởng tượng ra. Trọng lượng của khẩu súng đè nặng trên cánh tay khiến cô cảm thấy vững dạ, đó là trọng lượng của sức mạnh.



Cô tìm kiếm khắp những chỗ còn lại trong căn phòng, nhưng thất vọng khi thấy không còn một viên đạn nào khác cả. Tuy nhiên, dù gì thì khẩu Remington vẫn là một phát hiện.



Tất cả áo khoác của đội S.T.A.R.S. đều có một bao đựng shotgun hoặc súng trường phía sau lưng, nên mặc dù cô không giỏi lắm việc rút súng vượt - qua vai, nhưng ít ra thì cô cũng có thể mang nó theo mà không bị mỏi tay.



Chẳng còn gì thú vị trong căn phòng. Jill bước về phía cánh cửa, cô cảm thấy thích thú với việc quay trở lại sảnh chính và nói cho Barry biết về những phát hiện mới của mình. Cô đã kiểm tra tất cả các căn phòng mà cô có thể vào được ở phía bên này của tầng một. Nếu Barry cũng đã kiểm tra hết như cô ở phía còn lại thì họ có thể lên tầng trên và kết thúc quá trình tìm kiếm đội Bravo cùng những thành viên còn thiếu của đội mình.



Và sau đó, biết đâu lại có thể thoát luôn khỏi cái nhà xác này. Cô đóng cửa lại sau lưng rồi sải chân qua căn phòng lát đá màu xám đen, hy vọng, khi cô nắm lấy tay nắm cửa, rằng Barry đã tìm thấy Chris và Wesker rồi.



“Vì rõ ràng là bọn họ đã không đi lối này.”



Cánh cửa đã bị khóa lại. Jill cau mày, vặn tới vặn lui tay nắm nhỏ màu vàng. Có tiếng lách cách nhỏ nhưng cánh cửa không hề động đậy. Cô dí sát mắt vào khe hở giữa cánh cửa và cái khung cửa, đột nhiên cô cảm thấy chột dạ.



Đây rồi, mặt kia của cánh cửa, cạnh tay nắm là đoạn then cửa bằng thép đã chốt lại, loại then rất chắc; khu vực còn lại xung quanh cái then cửa lại còn được gia cố. Còn bên này thì chỉ có duy nhất một lỗ khóa và cái tay nắm cửa mà thôi...



Cách! Cách! Cách!
Vẫn cầm tác phẩm trên tay, cô quay trở lại chỗ góc phòng và nhìn chiếc đàn piano một cách suy tư. Có vẻ như chẳng còn việc gì hay ho hơn để làm. Và ngoài ra, biết đâu ai đó trong đội của cô nghe thấy tiếng cô đánh đàn sẽ tới gõ cửa phòng và cố gắng tìm mọi cách để dừng thứ âm thanh khủng khiếp do cô tạo ra thì sao.



Cô bật cười, phủi bụi khỏi chiếc ghế dài rồi ngồi xuống, đặt bản nhạc lên kệ. Các ngón tay cô tìm đến vị trí chính xác trên bàn phím một cách hoàn toàn tự động khi cô bắt đầu đọc các nốt nhạc đầu tiên, cứ như thể như cô chưa từng nghỉ chơi đàn bao giờ vậy. Một cảm giác dễ chịu và thú vị bắt đầu thế chỗ cho nỗi khiếp sợ đang lan tỏa khắp ngôi biệt thự.



Cô bắt đầu đánh, một cách chậm rãi và không chút ngập ngừng. Những âm thanh u buồn vang lên phá vỡ không gian tĩnh mịch, Rebecca thấy lòng mình trở nên thanh thản, cảm giác căng thẳng và sợ hãi lúc trước đã hoàn toàn biến mất. Tuy cô vẫn chơi không được tốt lắm, nhịp độ vẫn bị hỏng như mọi khi - nhưng cô đã đánh đúng nốt, và giai điệu bản nhạc vẫn đủ sức khỏa lấp những khiếm khuyết về mặt kỹ thuật của cô.



Giá mà các phím đàn không cứng đến thế.



Có gì đó di chuyển phía sau lưng cô.



Rebecca nhảy dựng lên, hất tung cả cái ghế dài khi cô quay người lại, tìm kiếm một cách hoang dại kẻ sắp tấn công mình. Và cô nhìn thấy một thứ khiến cô ngạc nhiên đến mức người cô cứng đơ ra mất mấy giây, không hiểu nổi ý thức đang nói gì với mình.



Bức tường đang di chuyển.



Ngay cả khi nốt nhạc cuối cùng vẫn còn treo lơ lửng trong không gian mát mẻ của căn phòng thì một ô tường cách mặt đất 3 feet trên bức tường trống không phía bên tay phải cô bắt đầu ầm ầm trượt ngược lên trần nhà cho đến khi nhẹ nhàng dừng lại. Người cô không động đậy mất một lúc, cô đứng đợi điều gì đó kinh khủng sắp xảy ra với mình, nhưng sau vài giây đồng hồ trôi qua một cách lặng lẽ, không còn gì khác chuyển động; căn phòng trở lại yên tĩnh và hiền lành như trước.



Bản nhạc bị giấu đi. Các phím đàn thì cứng một cách kỳ lạ...



... có vẻ như chúng được nối với một cơ cấu máy móc nào đấy thì phải?



Khe hở chật hẹp để lộ ra một căn buồng bí mật có kích thước bằng một chiếc tủ quần áo cỡ lớn, có thể bước vào được, và cũng được chiếu sáng nhẹ nhàng như phần còn lại của căn phòng. Ngoại trừ bức tượng bán thân với cái bệ đặt phía sau thì căn buồng hoàn toàn trống rỗng.



Cô bước về phía cái khe cửa rồi dừng lại, suy nghĩ về một cái bẫy chết người với những chiếc phi tiêu tẩm thuốc độc bắt đầu quay cuồng trong đầu cô. Ngộ nhỡ cô bước vào và gây ra một thảm họa nào đó thì sao? Nhỡ cánh cửa đóng sập lại và nhốt cô luôn ở đó, còn Chris thì không quay lại đây nữa thì sao?



Thế còn việc mày là thành viên duy nhất của đội S.T.A.R.S. chẳng làm được cái tích sự quái gì trong toàn bộ chiến dịch lần này thì sao đây? Thể hiện tí nghị lực xem nào!



Rebecca cố gắng cứng rắn hơn một chút trước hậu quả có thể xảy ra rồi bước vào bên trong, nhìn xung quanh một cách thận trọng. Cô không thấy có hiểm họa nào xuất hiện ở đây cả. Bức tường vữa thô mang màu cà phê sữa, có gắn gỗ trang trí. Căn buồng nhỏ này được chiếu sáng bởi cái bể kính bé tí tẹo ở phía bên phải cô mà bên trong là một nhúm cây héo rũ được trồng đằng sau lớp kính bẩn thỉu.



Cô bước gần hơn tới cái bệ ở phía sau và nhận thấy bức tượng bán thân bằng đá đặt trên bệ chính là tượng của Beethoven; cô nhận ra vẻ nghiêm trang cùng hàng lông mày rậm rạp của nhà soạn nhạc đã viết nên bản sonát Ánh trăng bất hủ. Bản thân trên cái bệ cũng có một cái huy hiệu bằng vàng, dầy cộp trông giống như một cái khiên hay bao bảo vệ tay, có kích thước to bằng cái đĩa ăn.



Rebecca cúi xuống cạnh cái cột chống đơn giản, mắt cô nhìn chăm chăm cái huy hiệu. Trông nó có vẻ cứng và dày, các họa tiết được trang trí một cách quý phái với một khối vàng đẹp đẽ ngang đỉnh. Trông cái huy hiệu có vẻ gì rất quen; hình như cô đã từng trông thấy những họa tiết tương tự ở đâu đó trong tòa nhà này.



Trong phòng ăn, phía trên lò sưởi!



“Đúng rồi, đúng là nó, chỉ có điều là cái huy hiệu đặt trên lớp khăn trùm lò sưởi được làm bằng gỗ”, cô có thể khẳng định chắc chắn. Cô đã để ý thấy nó trong khi Chris đang nhìn đống mảnh vỡ của bức tượng thạch cao.



Tò mò, cô chạm tay vào cái huy hiệu, lần theo những hoa văn chạy ngang qua mặt trước của nó, sau đó cô dùng hai tay nắm lấy hai cái gờ hơi nhô cao một chút trên tấm huy hiệu rồi nhấc nó lên. Cái huy hiệu nặng nề được nhấc lên một cách dễ dàng, cứ như thể đây không phải là chỗ thuộc về nó và đằng sau lưng cô, cánh cửa bí mật ầm ầm trượt xuống trở lại, nhốt cô ở lại trong phòng.



Không hề nao núng, cô quay lại và đặt chiếc huy hiệu trở lại chỗ cũ - mặt tường lại một lần nữa được nhấc lên, trượt nhẹ nhàng trên những rãnh bí mật. Thở phào nhẹ nhõm, cô nhìn xuống cái huy hiệu nặng nề bằng vàng và bắt đầu suy nghĩ.



Ai đó đã sắp đặt tất cả chuyện này theo thứ tự để giúp cho miếng huy hiệu được giữ kín, như thế hẳn nó phải quan trọng lắm - nhưng mà nếu thế thì tại sao cô lại nhấc nó ra khỏi chỗ để dễ dàng như thế được? Cái huy hiệu ở trên nóc lò sưởi không biết có mở ra cái hành lang bí mật nào không?



Hay là... cái huy hiệu ở trên lò sưởi có cùng kích cỡ với cái này? Tuy cô không chắc lắm nhưng cô nghĩ điều đó đúng và linh tính của cô cũng nói với cô rằng cô đã đúng. Nếu cô đổi chỗ hai cái với nhau, dùng cái huy hiệu bằng gỗ để giữ cho cánh cửa mở rồi đặt cái huy hiệu bằng vàng lên trên lò sưởi thì...



Rebecca quay trở lại căn phòng chính, nhoẻn miệng cười. Chris đã dặn cô phải ở nguyên tại chỗ, nhưng cô sẽ không đi lâu quá, chừng một hai phút thôi - biết đâu khi anh quay lại thì cô lại có gì đấy để cho anh xem thì sao, và rất có thể đây sẽ là một trong những đóng góp thật sự giúp làm sáng tỏ những điều bí mật đang ẩn giấu bên trong tòa biệt thự.



Và cũng là một minh chứng rõ ràng rằng cô không hề vô dụng chút nào.