Tây Du Ký
Chương 36 : Vào chùa báu, Ngộ Không dọa sãi Ngụ am thanh, Tam Tạng xem trăng
Ngày đăng: 08:21 19/04/20
Tôn Hành Giả nghĩ lại biết rồi, bởi tại thầy mình mắc nạn, liền nói xuôi rằng:
- Vậy thời tôi trả đủ cho ông.
Thái Thượng lão quân thâu năm báu, đổ Hồ lô và Tịnh bình, có hai ngọn hào quang sáng bay ra, Thái Thượng lão quân chỉ một cái, hiện ra hai vị đồng tử như thường, đồng về cung Ðâu Suất.
Khi ấy Tôn Hành Giả xuống thưa lại với thầy, rồi cùng nhau đi tới.
Ngày kia gặp hòn núi cản đường.
Tam Tạng nói:
- Núi đó rất cao, đồ đệ phải coi chừng ma quỷ.
Tôn Hành Giả nói:
- Xin thầy đừng lo sợ, hễ trong dạ vững vàng, thì tự nhiên vô sự.
Tam Tạng nói:
- Ðồ đệ ơi! Sao mà đi hoài không tới Tây Phương? Kể từ ra khỏi thành Trường An đến nay đã năm năm mà đường đi còn thăm thẳm!
Tôn Hành Giả cười hả hả nói rằng:
- Thầy ôi! Ði chưa tới đâu là đâu, cũng như mới ra khỏi cửa ngõ, thầy đừng hỏi thăm xa gần chi hết, hãy bền lòng đi mãi, thì cũng có thuở đến Tây Phương.
Thầy trò đi tới mặt trời lặn, thấy dựa chân núi có một kiểng chùa lớn, Tam Tạng giục ngựa tới, thấy ngoài cửa núi có treo tấm biểng đề năm chữ: Sắc Tử Bửu Lâm Tự.
Biết là cảnh chùa Bửu lâm của vua lập.
Tôn Hành Giả hỏi:
- Ai vào chùa ấy nói với sãi xin ngủ nhờ?
Tam Tạng nói:
- Ðể ta đi cho.
Nói rồi xuống ngựa cầm gậy bước vào. Thấy vòng cửa ngoài có hai cốt ông Kim Cang, vòng cửa giữa thấy có cốt bốn ông Thiên Vương đứng bốn phía.
Bốn ông Thiên Vươngấy là: Trì Quốc thiên vương, Ða Văn thiên vương, Tăng Trưởng thiên vương, Quãng Mục thiên vương.
Ðến vòng cửa trong có bốn cây tòng sum sê. Bước tới nữa là chùa lớn.
Tam Tạng bước vào lạy Phật và lạy bàn thờ Quan Âm.
Phía thờ Quan Âm cũng rộng giống hịt cảnh Nam Hải rõ ràng dựa vách tường đều tạc hình tôm cá rùa trạch ẩn trong sông.
Tam Tạng xem thấy gật đầu mà nói rằng:
Rất đổi cá rùa còn lạy Phật,
Huống chi người thế chẳng tu hành.
Xảy thấy đạo sĩ bước tới, Tam Tạng bái và thưa rằng:
- Ðệ tử ở nước Ðại Ðường, đi qua Tây Phương thỉnh kinh lỡ đường xin cho tá túc. Ðạo sĩ nói:
- Sư phụ ôi, tôi là kẻ thắp hương quét đất, đánh trống dộng chuông. Bởi chùa nầy của vua, nên có đại sư là sãi quan làm chủ, nên tôi không dám tự chuyên, để vào thưa lại đã.
Nói rồi vào phương trượng bạch rằng:
- Có người đến chùa nên tôi bạch cho lão gia đặng rõ.
Nói rồi truyền dọn bốn căn thanh tịnh, giăng mùng trãi nệm, và bảo cắt cỏ cho ngựa ăn tử tế.
Khi ấy Sãi quan và đạo sĩ với mấy thầy trộng, đều mời thầy trò vào liêu, đèn đuốc sáng như ban ngày, mấy người ấy đứng hai hàng hầu hạ.
Tam Tạng bảo rằng:
- Xin mấy vị về liêu, để thầy trò tôi nghỉ.
Các sãi vâng lời, mới dám đi nghỉ.
Còn Tam Tạng mở cửa ra ngoài đi dạo giải buồn, thấy trăng tỏ, liền kêu các đồ đệ ra xem.
Hành Giả, Bát Giới và Sa Tăng đều ra thưởng nguyệt.
Tam Tạng hứng cảnh ngâm một bài thơ rằng:
Phách quế gương trong thấy rõ ràng,
Sơn hà muôn cụm bóng chang chang,
Rọi trên ngọn cỏ sương in ngọc,
Gieo dưới dòng sông nước trỗ vàng,
Thế nọ còn nhiều tròn khuyết nữa,
Ðêm nầy nhờ chút khói mây tan,
Canh khuya chùa vắng bâng khuâng dạ,
Chẳng biết ngày nào lại cố bang.
Khi ấy Tôn Hành Giả cười rằng:
- Thầy xem trăng mà nhớ xứ, chưa lấy làm rõ việc thái âm, tôi xin cắt nghĩa: Mặt nguyệt đem ba mươi tiêu hết khí dương gọi là ngày hối, qua đêm sóc là mồng một nhờ giao với mặt trời nên có chút khí nhứt dương, đến mồng ba mới sáng một mảnh, qua mồng tám đặng khí nhị dương sáng nửa mặt trên như ái cung úp xuống, gọi là ngày thượng huyền, qua rằm đủ khí tam dương, nay sáng chói bốn phương gọi là ngày vọng, đến mười tám khí nhứt âm sanh, khuyết hết phân nửa, như cái cung để ngửa, nên gọi là ngày hạ huyền, rồi lại ba mươi đêm hối, tối đen như mực. Vậy mặt trăng hết tròn tới khuyết, hết khuyết tới tròn, cũng ví như người đời hết thạnh tới suy, hết suy tới thạnh, chớ thấy tròn mà mừng, hết sức tròn rồi khuyết, đừng thấy thạnh mà ỷ, thạnh quá rồi suy. Vậy lúc nầy thầy trò ta như trăng mồng một, hãy dày công càng bữa càng tròn, lo chi không tới Tây Phương, trở về cố quốc.
Tam Tạng khen phải, nên đổi buồn làm vui.
Sa Tăng nói:
- Anh luận tuy phải, song chưa giảng thấu chuyện nầy. Từ xưa đến nay cũng một mắt trăng ấy. Người đời thay đổi, mà mặt nguyện còn hoài, là vì có âm dương nương nhau mới sáng. Như chúng ta đồng tâm hiệp lực đi mới thấu Tây Phương.
TamTạng cũng khen phải. Bát Giới níu Tam Tạng nói rằng:
- Thầy ôi! Ðừng nghe hai người ấy nói xàm mà trễ giấc ngủ.
Tam Tạng nói:
- Thôi các trò mỏi mệt thì đi ngủ trước, để cho ta đọc kinh.
Tôn Hành Giả nói:
- Thầy đọc kinh làm chi, làm hòa thượng trong lúc xuân xanh, kinh nào không thuộc, quên hay sao mà phải đọc ôn. Còn như kinh mới bên Tây Phương thì thỉnh chưa đặng, chẳng hay thầy đọc kinh chi?
TamTạng nói:
- Mấy năm nay bỏ luống sợ quên, nên sẳn đêm thanh đọc ôn kinh cũ.
Nói rồi đồng trở vào liêu.
Ba trò đều ngủ hết, còn Tam Tạng lấy kinh ra xem.