Tây Du Ký

Chương 99 : Mười mấy năm trời qua Cực lạc Tám ngày phép Phật tới Trường An

Ngày đăng: 08:22 19/04/20


Nói về Ngủ Phương Yết Ðế, Tứ Bộ Công Tào, Lục Ðinh, Lục Giáp, Hộ Pháp Dạ Lam, đồng đến bạch với Quan Âm rằng:



- Các đệ tử bấy lâu vưng pháp chỉ Bồ Tát. Nay đã xong rồi, chúng tôi xin bạch lại!



Quan Âm mừng rỡ hỏi rằng:



- Bốn thầy trò Tam Tạng đi đường tâm tánh ra thể nào?



Các vị thần đồng bái và bạch rằng:



- Sự bốn thầy trò lòng thành, Bồ Tát đã rõ.



Còn các việc Tam Tạng khổ sở, kể không xiết, hể mắc nạn tại đâu, chúng tôi đều ghi vào sổ.Vậy xin dưng sổ tai nạn của Tam Tạng cho Bồ Tát xem.



Nói rồi dưng sổ, Quan Âm xem thấy đề tám chục khoảng như vầy:



Nạn thứ nhứt: Phải đọa đầu thai



Nạn thứ hai: Mới lọt lòng, gần bị giết



Nạn thứ ba: Bị thả trôi sông



Nạn thứ tư: Tìm mẹ trả thù cha



Nạn thứ năm: Mới ra khỏi thành gặp cọp



Nạn thứ sáu: Sa hầm, chết kẻ theo



Nạn thứ bảy: Qua núi Song xa



Nạn thứ tám: Tại núi Lưởng giái



Nạn thứ chín: Bị rồng nuốt ngựa



Nạn thứ mười: Bị thiêu ban đêm



Nạn thứ mười một: Mất áo cà sa



Nạn thứ mười hai: Bắt đặng Bát Giới,



Nạn thứ mười ba: Bị quái Hùynh Phong



Nạn thứ mười bốn: Ði cầu ông Linh Kiết



Nạn thứ mười lăm: Khó qua sông Lưu Sa



Nạn thứ mười sáu: Thâu đặng Sa Tăng



Nạn thứ mười bảy: Bốn thánh giả gái tốt



Nạn thứ mười tám: Bị quán Ngủ trang



Nạn thứ mười chín: Khó cứu cây nhơn sâm



Nạn thứ hai mươi: Ðuổi Tôn Hành Giả



Nạn thứ hai mươi mốt:Bị tại núi Hắc tòng



Nạn thứ hai mươi hai: Ðem thơ nước Bữu tượng



Nạn thứ hai mươi ba: Hóa ra hình cọp



Nạn thứ hai mươi bốn: Gặp yêu núi Bình đảnh



Nạn thứ hai mươi lăm: Bị treo tại ông Liên Hoa



Nạn thứ hai mươi sáu: Cứu vua nước Ô Kê



Nạn thứ hai mươi bảy:Bị yêu giả hình



Nạn thứ hai mươi tám: Gặp yêu núi Hiệu sơn



Nạn thứ hai mươi chín: Bị yêu bắt về động



Nạn thứ ba mươi: Tôn Hành Giả bị đốt



Nạn thứ ba mươi mốt: Thình Phật bắt yêu



Nạn thứ ba mươi hai: Chìm sông Bắc hà



Nạn thứ ba mươi ba: Tới nước Xa Trì



Nạn thứ ba mươi bốn: Ðàng cuộc với yêu quái



Nạn thứ ba mươi lăm: Cứu vớt thầy chùa



Nạn thứ ba mươi sáu: Ði gặp sông lớn



Nạn thứ ba mươ bảy: Té xuống sông Thông thiên
- Tệ quá! Ấy cũng bởi chúng ta vô ý, bộ kinh nầy mất hết chương sau!



Tôn Hành Giả cười rằng:



- Không phải vô ý đâu, trời đất còn có chổ thiếu mới hiệp với trời đất. Nghĩa là ý nhiệm cùng, nếu cùng thì không quý, ấy là số trời đã định trước như vậy, há bởi người sao?



Mấy thầy trò gói kinh gánh theo Trần Trừng, nội xóm hay tin, đồng ra nghinh tiếp, kẻ thắp đèn thắp hương, người dọn bàn ghế, tốp thì đờn ca gióng trống như thỉnh sắc, giây phút rước tới cửa xóm, Trần Thanh và nội nhà ra nghinh tiếp vào nhà, ai nấy đồng lạy tạ ơn.



Rồi dọn tiệc chay thiết đãi.



Tam Tạng hết xác phàm nên không đói như khi trước, vì tình nhậm lễ chút đỉnh mà thôi.



Tôn Hành Giả không ăn đồ nấu, dùng chút đỉnh trái cây.



Sa Tăng cũng chấm chút!



Bát Giới rán ăn một chén, rồi thì cầm đủa bái liền, Tôn Hành Giả hỏi:



- Sao thôi sớm như vậy?



Bát Giới nói:



- Không biết thể làm sao tì vị yếu quá, chắc là no hơi.



Ðoạn trà xong rồi, Trần Thanh, Trần Trừng hỏi thăm việc thỉnh kinh ra thể nào, Tam Tạng thuật chuyện lại và xin kiếu. Trần Thanh, Trần Trừng đồng nói:



- Anh em tôi khi trước nhờ ơn cứu mạng con cái, không biết lấy chi đền bồi; nên lập một cái chùa gọi là Cứu Sanh từ cốt bốn vị mà thờ, đèn hương không ngớt.



Nói rồi kêuTrần Quang Bảo và Nhứt Xứng Kim Ðồng ra lạy tạ bốn thầy, Rồi thỉnh đến chùa Cứu Sanh, Tam Tạng thấy bốn hình thầy trò, lên cốt coi như sống, mừng rỡ khen rằng:



- Như vậy thì tốt lắm, để bấn tăng đọc một vị kinh.



Nói rồi lấy kinh bữu thường tụng một cuốn. Tụng kinh rồi xuống lầu, Trần Thanh, Trần Trừng dọn tiệc thiết đãi, bốn thầy trò dùng chút vị tình. Tôn Hành Giả hỏi:



- Con miễu Linh Cảm đại vương ra thế nào?



Trần Thanh, Trần Trừng đồng nói rằng:



- Nội năm ấy xóm nầy phá miễu Cảm rồi lập chùa Cứu Sanh, từ ấy đến nay năm nào cũng như vậy.



Tôn Hành Giả cười rằng:



- Tại các ông có lòng lành, nên trời thưởng, chớ thầy trò tôi không giúp chút nào. Từ nầy sắp sau chúng tôi bảo hộ nội xóm bình an, yêu ma không dám xâm nhập, mưa gió hòa thuận, người mạnh vật an, song phải bỏ nghề chài rở săn bắn, cứ thiệt nghề làm ăn thì chúng tôi mới dám bảo hộ.



Ai nấy đồng lạy tạ ơn. Trần Thanh, Trần Trừng chịu báo cho vạn chài vạn săn làm ruộng cải nghề nghiệp sát sanh.



Ðến xế Trần Thanh dọn tiệc, đãi bốn thầy trò xong xả.



Chiều lại Trần Trừng dọn tiệc mời nữa, Bát Giới cười rằng:



- Tôi vô phước quá chừng, lúc ăn đặng không thấy ai mời, nay no hơi lại nhiều đám thỉnh.



Nói rồi ngồi vào tiệc, ăn rán một hai miếng gọi là, khó làm thẳng nghỉnh như trước.



Ðến tối Tam Tạng thức giữ kinh cho tới canh ba, liền kêu Tôn Hành Giả mà nói nhỏ rằng:



- Ngộ Không, các người ấy biết chúng ta đã thành rồi, nên cầm cọng lắm! Lời xưa nói:



- Phật Tiên không lộ hình, nếu vị tình ở lâu thì trể đại sự.



Tôn Hành Giả thưa rằng:



- Sư phụ nói phải lắm, chi bằng thừa lúc nầy nội gia ngủ hết, thầy trò đi lén cho xong!



Tam Tạng nói phải, Tôn Hành Giả liền kêu Bát Giới, Sa Tăngdạy mà nói nhỏ.



Bát Giới cười rằng:



- Ăn uống gì đặng mà ở lâu?



Nói rồi lén mở cửa chùa Cứu Sanh, gánh kinh và hành lý dắt ngựa đi êm, chó không hay mà sủa. Thầy trò mới đi một đổi, nghe trên mây có tiếng kêu rằng:



- Mấy thằng trốn đó, đi theo tám anh em tôi.



Khi ấy mùi hương thơm ngát, Tam Tạng lại là tám vị Kim cang làm phép đưa bốn thầy trò và con ngựa bay nửa lừng, mau hơn tận trước.



Còn Trần Gia Trang, rạng ngày ai nấy thức dậy nấu nước và dọn đồ chay lên cúng chùa Cứu Sanh, thấy cửa chùa mở hé, không còn ông nào ở lại! Ai nấy đồng than thở rằng:



- Gặp Phật rõ ràng mà cầm không đặng, uổng biết chừng nào.



Không biết làm sao, túng phải dọn đồ phẩm thực lên bàn cúng tế. Từ nay sắp sau mỗi năm cúng bốn lần trọng thể, và cứ mỗi tháng cúng hai kỳ. Nhiều người có bịnh đến cầu khẩn cũng lành, cầu an cũng đặng như lời, nên nhiều người van vái lắm, không giờ nào ngày nào cho hết hương lửa.



Nói về Bát Ðại Kim Cang dùng trận gió thứ nhì, đưa bốn thầy trò đi thấm thoát, không bao lâu gần tới Trường An.



Còn Vua Ðường Thế Dân, từ niên hiệu Trịnh Quang năm thứ mười ba, trước rằm ba bữa, đưa Tam Tạng ra khỏi thành.



Qua năm thứ mười sáu, liền sai ông Công Bộ cắt Vọng Kinh lâu tại ngoài ải Tây An, để phỏng rước kinh đến lầu ấy mà ngó chừng, trông hoài mấy năm không thấy chi hết.