Thế Giới Kì Bí Của Ngài Benedict - Tập 1: Bút Chì, Tẩy Và Người Thắng Cuộc

Chương 3 : Ô vuông và mũi tên

Ngày đăng: 19:48 19/04/20


Quả đúng như Reynie đã nghĩ trước đó, căn phòng nằm trên tầng bảy của tòa nhà. Chẳng có bảng hiệu trên cánh cửa. Nhưng, sau khi lòng vòng khắp một lượt qua các dãy hành lang vắng, soi kỹ tất cả các bảng hiệu trên cửa các căn phòng khác (nào là 7-A, 7-C, 7-D, và 7-E), cả ba quay lại với căn phòng duy nhất chẳng có chữ gì trên cửa. Kate đánh liều gõ cửa. Ngập ngừng một thoáng, cô bạn tiếp tục gõ và còn có vẻ gõ to hơn. Phải qua vài lần như thế mới có phản hồi - nhưng không phải từ phía bên kia cánh cửa mà là từ ngay phía sau lũ trẻ.



“Gõ thế là đủ rồi đấy”, một giọng trầm vang lên gần sát bên tai.



Trước mặt lũ trẻ bây giờ là một người đàn ông cao lớn, đội chiếc mũ bạc phếch; chiếc áo khoác bạc phếch; cái quần bạc phếch, và cả đôi ủng dưới chân cũng bạc phếch. Gò má hồng hào của ông bị che khuất trong bộ râu quai nón lởm chởm, trong khi mái tóc (từ những gì có thể nhìn thấy phía dưới chiếc mũ) thì lại có màu vàng nhạt. Nếu chẳng có đôi mắt tinh nhanh màu xanh nước biển kia, người ta có thể sẽ nghĩ đấy là một con bù nhìn vừa mới thoát khỏi cái cọc chôn chân ở ngoài đồng. Và trên hết là cái nét buồn thảm trên gương mặt đang nhìn chúng. Lũ trẻ ngay lập tức nhận ra cái nét buồn thảm ấy.



Reynie bị ám ảnh đến mức, thay vì chào hỏi cho phải phép, lại hỏi, “Ngài ổn chứ ạ?”



“Ta e là không. Nhưng không quan trọng. Các cháu đã sẵn sàng cho vòng thi tiếp theo chưa?”



“Nhưng mà chúng ta chưa biết gì về nhau ạ!” Kate nói và chìa tay ra.



“Tên cháu là Kate Wetherall, bạn bè gọi cháu là…,” cô bé liếc sang hai cậu bạn đang nhìn mình với ánh mắt ngờ vực.



“À, bạn bè gọi cháu là Kate ạ.”



Người đàn ông miễn cưỡng bắt tay Kate. Nhưng mà, thậm chí cả cái bắt tay cũng ỉu xìu, ông ấy chẳng buồn bỏ sức ra xiết tay Kate. Đến lượt hai cậu bé tự giới thiệu về mình và người đàn ông lại hờ hững bắt tay chúng. “Thế là biết nhau rồi nhé. Bây giờ...,” ông nói.



“Nhưng ngài vẫn chưa cho chúng cháu biết tên,” Kate bướng bỉnh.



Người đàn ông thở dài, đăm chiêu suy nghĩ. Cuối cùng, ông quyết định, “Gọi ta là Milligan.”



“Đấy là tên hay họ của ngài ạ?”



“Milligan thôi. Không hỏi thêm gì nữa đâu nhé. Bắt đầu nhé. Nào, ai là George?”



Kate cau mày giận dữ. Cô bé đang dần dần mất kiên nhẫn rồi.



“Ngài chẳng nghe bọn cháu nói gì cả. Bọn cháu là Sticky, Reynie và Kate!”



Sticky hắng giọng, “Ừm, à, thực ra tên tớ là George. Sticky là biệt danh thôi.”



“Có nghĩa tên cậu là George Washington? Cái tên của tổng thống? Của người đã khai sinh ra đất nước chúng ta á?” Kate hỏi.



“Cũng chẳng phi thường đến mức ấy đâu,” Sticky tự vệ. “Cậu đừng trêu chọc tớ thế nữa.”



“Thoải mái đi,” Kate nói. “Tớ chẳng chọc ghẹo gì đâu nhé.” Rõ ràng là Sticky có vẻ khá nhạy cảm với tên gọi của mình.



Ngài Milligan nói, “Dù là Sticky hay George thì cháu cũng sẽ là người đầu tiên. Đóng cánh cửa kia lại ngay sau khi bước qua nó nhé.”



Sticky mở to mắt, “Cháu phải vào trong kia một mình ạ?”



“Đúng rồi, chỉ là một bài thi thôi mà. Hai bạn này cũng sẽ vào trong đó ngay thôi.”



“May mắn nhé Sticky,” Reynie vỗ vỗ lên vai cậu bạn của mình, động viên. “Tớ chắc bạn sẽ làm tốt.”



“Vào đi, Sticky,” Kate nói.



Sticky tháo kính ra, lau lau hai mắt kính, rồi đeo lại lên mắt. Xem xét một chút, cậu bé lại lặp lại quy trình này một lần nữa. Có vẻ như có đốm trên mắt kính mà mãi chẳng lau sạch.



“Đừng chần chừ nữa, Sticky,” Milligan giục. “Không có gì làm cháu đau đâu.”



Cuối cùng Sticky gật đầu, đeo kính, cất cái khăn lau và bước qua cánh cửa. Milligan lập tức đóng cánh cửa lại, rồi bỏ đi mà chẳng nói từ nào.



“Cậu thấy sao?” Kate nói. “Ngài ấy thậm chí cũng chẳng hướng dẫn chúng ta phải làm gì, hay bài kiểm tra sẽ kéo dài trong bao lâu, chẳng nói gì cả.”



“Ngạc nhiên thật đấy,” Reynie trả lời.



Vừa lúc đó, Milligan quay trở lại và thông báo đã đến lượt Reynie. Không một chút thông tin nào về những gì đã xảy ra với Sticky.



“Hẹn gặp cậu ở phía bên kia cánh cửa nhé,” Kate nói. “Dù là ở bất cứ đâu.”



Reynie hít một hơi thật dài rồi đi vào căn phòng, cùng lúc cánh cửa phía sau đã được đóng lại. Cậu thấy mỗi mình mình trong căn phòng trống. Trên bức tường đối diện, phía trên cánh cửa đóng kín, có dòng chữ:



VƯỢT QUA CĂN PHÒNG NÀY, KHÔNG ĐƯỢC GIẪM CHN



LÊN BẤT CỨ Ô VUÔNG MÀU XANH HOẶC ĐEN NÀO.



Reynie nhìn xuống. Trên nền xi măng ngay sau cánh cửa, chính là chỗ cậu đang đứng, có một vòng tròn lớn màu đỏ. Phía bên kia căn phòng, cạnh cánh cửa đóng kín đối diện, là một vòng tròn đỏ khác. Khoảng sàn nhà giữa hai vòng tròn này giống như một bàn cờ khổng lồ với các ô chữ nhật màu xanh, đen và vàng xen kẽ nhau. Reynie tính toán. Có quá nhiều ô màu xanh và đen so với số lượng ít ỏi các ô màu vàng. Cậu nhanh chóng nhận ra, vượt qua căn phòng này mà không đặt chân lên bất cứ ô xanh hoặc đen nào là điều không thể. Các ô màu vàng ở cách xa nhau đến mức, theo Reynie, thậm chí một chú kangaroo cũng khó có thể nhảy được từ ô này sang ô kia. Reynie ngẩng lên xem xét lại dòng chữ. Sau một thoáng suy nghĩ, cậu mỉm cười lắc đầu rồi tự tin rảo bước qua bàn cờ, đi qua vòng tròn đỏ phía bên kia và bước qua cánh cửa.



Sticky và Milligan khi đó đang đợi Reynie ở phía xa. Cả hai đã bí mật theo dõi Reynie qua các lỗ hổng nhỏ xíu trên tường. Sticky bối rối tỏ vẻ muốn hỏi Reynie điều gì đó, nhưng Milligan đã ra hiệu cho cậu yên lặng. “Các cháu có thể xem, nhưng phải trật tự.”



Xong xuôi, Milligan đi ra ngoài để thông báo với Kate là đã đến lượt cô bé.



Vài giây sau, Kate ngập ngừng bước vào phòng 7-B. Đọc dòng chữ xong, Kate quan sát sàn nhà, tính toán xem liệu mình có thể nhảy từ ô màu vàng này sang ô màu vàng khác được không. Cuối cùng, cô bé lắc đầu từ bỏ ý nghĩ này. Tiếp đó, cô bé ước chừng khoảng cách giữa hai cánh cửa, trước khi lôi ra một đoạn dây từ trong chiếc giỏ cô mang theo, tạo một cái thòng lọng ở đầu dây, rồi với một động tác thành thục, quăng chính xác cái thòng lọng vào cái núm trên cánh cửa phía bên kia căn phòng. Buộc đầu dây còn lại vào núm cửa phía sau, Kate kéo căng sợi dây, cẩn thận thắt nút rồi leo lên. “Giờ mà có cái mái chèo nhỉ.” Kate vừa bước trên sợi dây vừa nói với chính mình, “Mình sẽ cầm nó ở đằng trước để giữ thăng bằng.”



Đúng là một mái chèo có thể đã có ích, vì khi đi được một nửa quãng đường, Kate loạng choạng suýt ngã (hai cậu bạn thì thót tim chờ đợi). Nhưng chỉ sau vài giây vung tay liên hồi, cô nhanh chóng lấy lại được thăng bằng. Cẩn thận đi thêm vài bước nữa, Kate nhảy phốc xuống vòng tròn đỏ phía bên kia căn phòng.
Nghĩ đi nghĩ lại mãi không ra, Reynie quyết định hỏi thẳng Kate, “Được rồi. Nhưng cái giỏ giúp cậu đi qua cái mê cung đó thế nào?”



“À, dĩ nhiên là tớ đoán ngay đó là một mê cung, và tớ biết mình phải đến được phía bên kia của tòa nhà. Vì thế, tớ nhìn quanh để tìm một cái lỗ thông hơi... “



“Một lỗ thông hơi thật á?”



“Chắc chắn rồi. Và tớ tìm thấy một cái ở ngay dưới sàn của căn phòng đầu tiên. Tớ lôi con dao ra, gỡ tấm chắn, quỳ xuống và chui vào đường ống thông hơi. Cái ống đó vừa khít người tớ luôn nhé, nên tớ phải buộc cái giỏ vào bàn chân và kéo nó theo. Mấy cái đường ống cũ kỹ ấy chạy dọc ngang khắp tòa nhà, nhưng đường ống trung tâm sẽ gần như chạy theo một đường thẳng đến phía sau. Nên tớ, lúc đó tay cầm đèn pin, tay cầm con dao, bò theo cái ống đó đến tận đây, mở nắp đậy và nhảy xuống ngay đầu cầu thang đấy. Để chui ra được khỏi cái ống, tớ phải uốn cong cái nắp đậy. Chắc cô Áo Vàng sẽ phát điên lên vì điều đó mất.”



“Tớ cá là cô ấy sẽ bỏ qua thôi.”



“Cậu nghĩ thế thật đấy? Có vẻ là sẽ không đâu, vì chẳng dễ để sửa cái nắp đó. Này, quả địa cầu ấn tượng nhỉ.”



Rồi Kate và Reynie giết thì giờ bằng trò tìm các địa điểm trên quả địa cầu. Nhưng mãi đến khi cả hai đã bắt đầu thấy chán mà vẫn chưa thấy bóng dáng Sticky Washington đâu cả. Kate đi đến chỗ cây đàn piano, đưa đưa tay lên các phím đàn, nhưng chẳng có âm thanh nào phát ra. Reynie và Kate hợp sức nhấc nắp đàn lên. Bên trong, chẳng còn dây đàn nào cả, chỉ có những cuốn sách.



“Những người sống ở đây chắc phải đọc nhiều lắm đấy,” Kate phát biểu. “Dù sao thì tớ cũng biết mỗi cuốn Những đôi đũa thôi.”



Đã gần hai mươi phút trôi qua, Sticky vẫn chưa xuất hiện. Kate giờ đã chuyển sang trò sắp xếp lại mấy thứ đồ trong giỏ. Cô bạn đã định ra được một cách sắp xếp hoàn hảo cho cái giỏ của mình; đảm bảo những đồ đựng trong đó được an toàn và dễ lấy nhất, và Kate thì lại rất lưu tâm về vấn đề này. Reynie thấy Kate thuộc tuýp những người lúc nào cũng muốn mình bận rộn, nên chẳng mấy khi thấy Kate ngồi không. Nghĩ đến đây, Reynie chợt nhớ ra một điều cậu vẫn muốn hỏi cô bạn của mình. “Kate này, có một điều cứ khiến tớ băn khoăn mãi. Cậu bảo cậu mang theo tất cả những thứ này, vì cái nào cũng có ích cả, phải không?”



“Chính xác,” Kate trả lời.



“Vậy tại sao lại có cái kính vạn hoa này? Nhìn qua nó thì cũng thú vị đấy, nhưng nó giúp ích thế nào nhỉ?”



Kate dừng tay, nhìn Reynie vẻ dò xét. Sau cùng, cô bé gật đầu. “Thôi được. Cậu biết đấy, tớ nghĩ tớ có thể tin tưởng cậu. Và đây là điều bí mật.” Kate lôi ra chiếc kính vạn hoa, rồi tháo rời cái mắt kính sặc sỡ. Chỉ đến lúc này Reynie mới nhận ra cái mẩu kính nhiều màu kia thật ra để che cho một cái mắt kính khác ở bên dưới.



“Đây thật ra là một cái kính thiên văn cỡ nhỏ được ngụy trang dưới hình dáng của một cái kính vạn hoa đấy,” Kate giải thích. “Cái kính này rất tốt nên tớ chẳng muốn bị mất nó. Cái kính vạn hoa trông lại có vẻ tồi tàn, nên chẳng hấp dẫn được ai đâu.”



Cái ý tưởng ngụy trang kính thiên văn dưới vỏ bọc của một cái kính vạn hoa làm Reynie bật cười sảng khoái. “Ý tưởng vĩ đại đấy,” Reynie thốt lên.



Dù chẳng rõ lắm Reynie đang cười cái gì, nhưng cô bé chẳng cảm thấy khó chịu, thậm chí còn cười hùa theo. Để cho Reynie săm soi xong cái kính, Kate cất nó vào giỏ rồi gieo mình xuống ghế. “Cậu nghĩ Sticky có qua được không? Tớ đang có khoảng thời gian tuyệt vời, nhưng mà hình như sắp chết đói mất rồi.”



Dường như để đáp lại câu hỏi của Kate, tiếng chuông bất ngờ cất lên - một lần duy nhất và tiếng kêu khá nhỏ như là Sticky chỉ dùng móng tay để bấm chuông vậy. Qua cánh cửa vẫn đang đóng kín, Reynie và Kate nghe thấy tiếng cô Bút Chì với âm giọng cộc cằn vốn có, đáp lại là tiếng lí nhí đầy vẻ bối rối, ắt hẳn đây là câu trả lời của Sticky. Sau đó ít lâu, mọi thứ lại trở về trạng thái im ắng vốn có của nó. Còn Reynie và Kate lai tiếp tục đợi.



“Không lâu nữa đâu,” Reynie nói. “Lần thứ hai này sẽ nhanh hơn rất nhiều một khi cậu ấy đã phát hiện ra bí mật của mê cung. Lần thứ hai của tớ chỉ mất có ba phút thôi mà.”



Tuy nhiên, chẳng máy chốc đã hết ba phút. Rồi bốn phút, năm phút, phải mất gần mười lăm phút sau mới nghe thấy tiếng chuông kêu lần nữa, cũng nhỏ như lần trước vậy. Một giây sau cánh cửa bật mở, Sticky bước vào phòng, theo sau là cô Bút Chì. Thấy Reynie và Kate đang ở đó, Sticky cười rạng rỡ. Không hẳn vì cậu đã vượt qua thử thách, mà phần lớn là vì giờ đây cậu gặp lại những người bạn của mình.



“Chúc mừng,” cô Bút Chì nói. “Cả ba em đều qua.”



Lũ trẻ hò reo chúc mừng lẫn nhau, vỗ vỗ vào lưng nhau. Khi màn ăn mừng vừa kết thúc, cả ba mới nhận ra cô Bút Chì đã lại bỏ rơi chúng rồi.



“Cô ấy có vẻ thích kiểu bỏ đi như thế nhỉ,” Kate nhận xét. “Tớ chưa từng gặp ai có cái kiểu biến đi như thế cả. Có phải cô ấy lại muốn chúng ta đợi thêm nữa không nhỉ?”



“Có thể là Rhonda đang đi tới đây đấy”, Reynie nói.



“Hy vọng thế, nếu không chắc tớ phải ăn vài cuốn sách ở đây mất. Sticky, sao cậu lâu thế hả? Cậu có biết tớ là đang rất đói không hả?”



Sticky như sắp khóc, lại đang định với tay tháo cặp kính mình đang đeo, cậu ấy mới nhận ra Kate chỉ đang trêu cậu. Sticky mỉm cười, “Tớ phải đi đi lại lại tận hai lần kia đấy.”



“Reynie cũng thế. Nhưng cậu ấy bảo có một bí mật nào đấy để vượt qua mê cung rất nhanh chóng. Tại sao đến lần thứ hai cậu vẫn mất nhiều thời gian vậy?”



“Có nhanh hơn một chút đấy chứ,” Sticky chống chế. “Cái bí mật cậu vừa nhắc đến là gì thế?”



“Bí mật của mê cung ấy”, Reynie trả lời. “Những mũi tên ấy”.



“Mũi tên? Ý cậu là mấy cái khắc trên các mảnh gỗ trang trí đấy á?”



Reynie sửng sốt nhìn Kate, nhưng Kate trả lời, “Đừng có nhìn tớ. Tớ chẳng biết gì về mấy cái mũi tên mà cậu bảo, nhớ chứ? Tớ đi đường tắt mà.”



“À đúng rồi nhỉ,” Reynie nói. “Sticky này, nếu cậu không dựa vào những mũi tên, thì sao cậu vượt qua được mê cung?”



Sticky di di ngón chân xuống sàn và nói, “Tớ cứ thử từng cửa một thôi, cho đến khi tớ tìm thấy cái cầu thang. Đơn giản chỉ là may mắn thôi.”



“Và cậu lại tìm được cái cầu thang nhanh hơn ở lần thứ hai? Tớ đoán cái này mới thực sự là may mắn ấy.”



“Ồ, không phải, lần thứ hai dễ dàng hơn chứ,” Sticky nói. “Tớ nhớ và làm theo đúng như lần đầu tiên thôi: Đầu tiên là đi qua ô cửa bên phải, rồi ô cửa bên trái, rồi đi thẳng, trước khi rẽ phải; rồi rẽ phải tiếp, tiếp tục rẽ trái, lại trái tiếp, rồi rẽ phải, đi thẳng, và cứ như thế, cho đến khi tớ đi đến chân cầu thang. Tớ chẳng mất công vò đầu bứt tai với mấy cái mảnh gỗ trang trí hay lo lắng liệu họ có tắt tất cả các bóng đèn đi, hay đại loại thế. Tớ cứ di chuyển theo đúng như trước đó tớ đã đi thôi.”



“Cậu đúng là...” Kate choáng váng, lúc lắc cái đầu. “Thật không thể tin được.”



Reynie cười lớn. “Cậu chọn cách khó khăn đấy, Sticky ạ.”



“Thế cách dễ là cách nào?”



“Cứ đi theo mấy cái mũi tên lượn sóng thôi.”



“Ơ,” Sticky trầm ngâm. “Giá mà biết trước được điều đó thì tốt quá nhỉ.”