Thế Giới Kì Bí Của Ngài Benedict - Tập 1: Bút Chì, Tẩy Và Người Thắng Cuộc

Chương 4 : Thử thách bọn trẻ

Ngày đăng: 19:48 19/04/20


Bữa tối diễn ra trong một căn phòng ấm cúng với những bức tường chất đầy sách và một cửa sổ nhìn xuống sân. Bên ngoài, lũ chim hồng y đang ríu rít dưới tán dương, và một làn gió thổi nhẹ qua căn phòng. Trên hết, tâm trạng lũ trẻ đã tốt hơn trước rất nhiều rồi, bởi chúng đã vượt qua tất cả các vòng thi của ngày hôm nay, và giờ lại có vài thứ để xoa dịu mấy cái dạ dày lép xẹp nữa chứ. Cả ba ngấu nghiến hết mấy bát súp cà chua, vài cái bánh sandwich nướng pho mát Rhonda mang ra. Giờ đến lượt một đĩa hoa quả to uỵch vừa được để lên bàn. Khi lũ trẻ đang hào hứng với nào là chuối, là nho, là táo, Rhonda ngồi xuống bên cạnh chúng.



“Tất tần tật đều là một phần của kỳ thi này đấy. Cả việc các em bị bỏ đói bị chọc cho đến phát cáu lên. Bọn chị cần quan sát thái độ của các em khi các bạn khác đều được phát bánh, còn các em lại chẳng được gì, hay theo dõi việc trí óc của các em vẫn làm việc tốt thế nào ngay cả khi chủ nhân của chúng đang rất mệt mỏi, đói khát. Và chị phải thừa nhận rằng tất cả các em đều rất xuất sắc.”



Sticky vốn đang khá nhạy cảm trước những gì cậu thể hiện ở phần thử thách với mê cung, cậu nói:



“Em không nghĩ em tốt như chị nói. Em chẳng tìm ra bí mật, cũng chẳng tìm được con đường tắt đến phía sau tòa nhà. Tất cả những gì em đã có thể làm là thử hết lối ra này đến lối ra khác như một thằng điên.”



“Sticky, em không được tự hạ thấp mình như thế chứ,” Rhonda nói. “Chị cá là rất ít người làm được như em ở lượt thứ hai, em có thể nhớ lại chính xác từng hướng di chuyển của mình. Em đã phải rẽ đến cả trăm lần ấy chứ.”



“Tớ nghĩ tớ chẳng làm được thế đâu,” Reynie đồng tình.



“Còn tớ thì chắc chắn luôn ấy, tớ chẳng làm được như thế đâu.” Kate nói với cái miệng đầy nho.



Sticky gật đầu đồng ý.



“Em không phải là đứa trẻ duy nhất gặp rắc rối với cái mê cung ấy đâu,” Rhonda nói. “Lần đầu tiên đi qua đó, chị còn bị lạc khủng khiếp kia.”



“Lạc trong cái mê cung đó ạ,” Sticky hỏi, trong khi hai người bạn của cậu đang dỏng tai lên đợi câu trả lời.



“Phải, cách đây mấy năm, chị cũng tham gia kỳ thi này, giống như các em vậy. Lúc đó, chị tự tin lắm vì nghĩ mình thông minh, và chị đã nhận ra ngay là mình đang ở trong một mê cung của những căn phòng giống hệt nhau. Chị lại vốn có khả năng vượt trội trong những vấn đề tương tự như thế. Chị đã suy luận thế này: nếu mỗi căn phòng đều có ba lối ra, và mình cứ chọn lối phía bên phải để đi, chẳng mấy chốc sẽ đến được phía bên kia tòa nhà thôi. Tất nhiên là ngài Benedict cũng đã tính toán đến khả năng này.”



“Ngài Benedict là ai ạ?” Reynie hỏi.



“Ngài ấy là lí do để chúng ta đang ở đây. Sau bữa tối các em sẽ được gặp ngay thôi.”



“Rồi điều gì đã xảy ra với chị ở trong cái mê cung đó?” Kate hỏi.



“À, giả dụ em là chị nhé,” Rhonda tiếp tục, “sau khi đi qua khoảng sáu căn phòng, em đụng phải một lối cụt, và mấy cái kế hoạch nhỏ bé thông minh em đã chuẩn bị trước đó bay hết ra ngoài cửa sổ. Lúc đó chị rối trí lắm, chẳng buồn nhìn ngắm, săm soi mấy cái mảnh gỗ nhỏ nữa, cứ đè mấy cái mũi tên màu xanh lá cây mà đi - vì màu này thường có nghĩa là “Đi” mà. Sau một lúc, chẳng thấy tình hình được cải thiện tẹo nào, chị chuyển sang thử mấy mũi tên màu đỏ. Cuối cùng, lúc chị tìm ra được bí mật của mê cung thì cũng mất hơn một giờ rồi.”



“Nhưng chị vẫn qua?” Sticky hỏi, vẻ phấn khởi khi có một người khác cũng gặp rắc rối với cái mê cung kia giống mình.



“Tất nhiên,” cô Bút Chì xen vào ngay khi bước vào phòng. “Rhonda là thí sinh tốt nhất từ trước đến nay đấy. Các thử thách trước đó Rhonda đều xuất sắc vượt qua, cho nên kết quả của vòng thi với cái mê cung sẽ chẳng ảnh hưởng gì, dù nó thế nào thì Rhonda vẫn qua.”



“Đừng ngốc thế,” Rhonda nói. “Nếu chị không phải là người thông minh nhất trong số tất cả các thí sinh đã tham dự kỳ thi của ngài Benedict, thì em đã là Nữ hoàng Anh rồi.”



Nghe Rhonda nói thế, hai má cô Bút Chì ửng đỏ, đỏ như mái tóc của cô vậy.



Đúng như Sticky thừa nhận về cảm giác bối rối mỗi khi quá hào hứng về một việc nào đó, giờ cảm giác điên cuồng trước những bí mật liên tiếp khiến cậu bé chẳng thế suy nghĩ thông suốt được nữa. “Chị nhắc đến Nữ hoàng Anh là sao ạ?” Sticky hỏi Rhonda. “Không phải lại là một câu đố nữa chứ ạ?”



Rhonda cười. “Chỉ là câu nói đùa thôi, Sticky ạ. Em biết đấy, chị không phải là Nữ hoàng, và chị cũng chẳng đến từ Anh. Chị sinh ra ở một đất nước có tên là Zambia, và được đưa đến Thành phố Đá này từ khi còn bé lắm.”



“Zambia? Thế chị có nói tiếng Bembi, hay một ngôn ngữ Bantu nào đó không?”



“Tại sao?” Rhonda hỏi lại. “Làm thế quái nào mà em lại biết được nó nhỉ? Em nói được tiếng Bambi à?”



“Chắc chắn là không rồi ạ. Em có thể đọc bằng hầu hết các thứ tiếng, nhưng lại gặp khó khăn khi nói bằng một thứ tiếng nào đó ngoài tiếng Anh. Em chẳng thể làm cho cái lưỡi của mình nó hoạt động theo cách đáng ra nó phải thế.”



Rhonda mỉm cười. “Bây giờ thì chính chị cũng chẳng thể nói được thứ tiếng ấy nữa, lâu quá rồi mà.” Rhonda nhìn Sticky với một vẻ ưu ái. “Hiếm khi chị gặp được một người biết ngôn ngữ của Zambia là gì, và số người biết đọc tiếng Zambia còn ít hơn nhiều.”



“Sticky biết nhiều thứ lắm đấy,” Reynie nói.
Sticky ho và lẩm bẩm gì đó liên quan đến việc cần sử dụng phòng tắm.



Ngài Benedict mỉm cười trìu mến và nói, “Sticky, cháu không phải sợ hãi, cháu không bắt buộc phải tham gia đội. Ta muốn các cháu hiểu hơn một chút nữa, và sau đó cháu hoàn toàn có quyền lựa chọn đi hay ở. Công bằng chưa nào?” Lưỡng lự vài giây, Sticky gật đầu. “Bây giờ, cháu có thực sự cần phòng tắm nữa không, hay là cháu có thể đợi thêm một lúc nữa?” ngài Benedict thêm vào.



Thực sự thì Sticky cần, nhưng cậu bé trả lời, “Cháu có thể đợi ạ.”



“Tốt lắm. Bây giờ, trước khi giải thích rõ hơn, ta có một câu hỏi khác dành cho các cháu. Điểm chung của các cháu là gì?”



“Chúng cháu đều vượt qua mấy vòng thi tẻ nhạt,” Constance nói.



“Chúng cháu đều tài năng,” Kate nói.



“Chúng cháu đều là trẻ con,” đến lượt Sticky lên tiếng.



Ngài Benedict gật đầu với mỗi ý kiến, rồi nhìn Reynie, người vừa mới có câu trả lời, “Chúng cháu đều cô đơn.”



Ngài Benedict nhíu mày. “Điều gì khiến cháu nghĩ như thế?”



“Có ạ,” Reynie trả lời, “đó là mẩu tin quảng cáo. Nó không hướng tới các vị phụ huynh, mà nhắm thẳng tới những đứa trẻ. Vì thế nên cháu nghĩ ngài đang tìm kiếm những đứa trẻ cô đơn. Rồi có rất nhiều ông bố bà mẹ đưa con đến tham dự vòng thi thứ nhất, nhưng sau đó tại tòa nhà Thầy Tu cháu chỉ thấy một số ít - và cháu biết ít nhất một số bạn đã tự đi đến đó. Và giờ thì chúng cháu đang ở đây. Cháu là trẻ mồ côi, mẹ Kate mất khi bạn ấy còn nhỏ và sau đó thì bạn ấy lại bị bố bỏ rơi, và cháu chỉ dám phỏng đoán về Constance, còn về Sticky - tớ xin lỗi, Sticky, nhưng tớ đoán cậu đang giấu diếm điều gì đó. Tớ nghĩ, ở một mức nào đó, cậu cũng là người cô đơn.”



“Trước khi cháu nói gì đó,” ngài Benedict quay sang Sticky, cậu bé đang nhìn Reynie chằm chằm với ánh mắt sửng sốt, “để ta nói nói với cháu điều này. Ta luôn luôn có quy định rất nghiêm ngặt liên quan đến việc chạy trốn. Nhưng xét đến hoàn cảnh hiện nay, ta sẵn sàng đưa ra một ngoại lệ. Khi cần phải quyết định đi hay ở, hãy nhớ rằng cháu không cần phải bịa ra bất cứ một lý do nào cả. Và nếu cháu quyết định không ở lại, Rhonda và Số Hai sẽ có nhiệm vụ giúp đỡ cháu. Ta chẳng hề định sẽ để cháu đi ra ngoài phố kia mà không có tiền, không có thức ăn, và không được bảo vệ.”



Đến lúc này, Sticky chuyển ánh nhìn sửng sốt của mình sang ngài Benedict. Cậu bé mở miệng định nói, nhưng rồi suy nghĩ lại, và cuối cùng cúi gằm mặt xuống.



Kate nghiêng người đặt một tay lên vai cậu bạn mới. “Chạy trốn?” cô bé thì thầm. “Cậu suy nghĩ thực tế hơn tớ tưởng đấy, bạn thân ạ.”



“Ai cũng trả lời đúng hết,” ngài Benedict nói. “Các cháu là những đứa trẻ tài năng đã vượt qua mấy vòng thi “nhàm chán” của ta, và đều thể hiện cho ta thấy các cháu cực kỳ có tài xoay sở. Chẳng hạn, ta vô tình biết được là Constance đã bí mật sống ở một thư viện công cộng phía bắc thành phố Đá, và cô bé đã xoay sở để bắt được một chuyến xe buýt, một chuyến tàu điện ngầm, và cuối cùng là một chuyến taxi để đến đây. Và ta cũng biết được là, ở Chicago, Kate đã ăn trộm trên một toa xe, còn Sticky thì đi lậu vé trên một chuyến xà lan. Các cháu đều thể hiện là mình thông minh - bằng cách này hay cách khác - và, tất nhiên rồi, hiểu theo nghĩa này hay nghĩa khác, các cháu đều cô đơn.”



Rồi ông tạm dừng, âu yếm nhìn lũ trẻ đang lẫn lộn trong sự tự hào tuyệt đối và lòng cảm thương vô bờ. Thực sự, nước mắt đã dâng đầy trong mắt ông, và sự chân thành đó khiến Reynie - vốn quen với việc lờ đi sự cô đơn của chính bản thân mình - bỗng cảm thấy thật buồn chán. Khao khát mãnh liệt được gặp lại cô Perumal dâng lên trong lòng cậu. Mới sáng nay thôi, Reynie đã ngạc nhiên biết bao khi cô Perumal khóc lúc họ chia tay? Vậy mà Reynie cảm giác như chuyện đó đã xảy ra lâu lắm rồi.



“Ôi trời ơi,” Rhonda kêu lên, vì ngài Benedict, ngập trong những cảm xúc mạnh, đã lại rơi vào giấc ngủ. Báo hiệu bằng một tiếng ngáy to và bất thình lình, ngài Benedict ngã chúi về phía trước, vào vòng tay ân cần của Rhonda và Số Hai, trước khi hai người nhẹ nhàng đặt ông xuống sàn.



“Chuyện gì xảy ra với ngài ấy thế ạ?” Constance hỏi.



“Ngài ấy bị mắc chứng ngủ rũ,” Kate nói.



“Tức là ngài ấy thường xuyên ăn trộm à?”



“Không, không phải tật táy máy như cậu nghĩ đâu,” Sticky nói. “Ngài Benedict ngủ rất nhiều.”



“Ồ, tớ chẳng thích điều này chút nào đâu,” Constance giận dữ.



“Constance, cô cam đoan là,” Số Hai nói, vẻ phật ý, “ngài Benedict cũng chẳng thích thú gì đâu. Không ai trong chúng ta muốn nó cả. Chỉ đơn giản là phải chấp nhận nó mà thôi.”



Trước cả khi ai đó kịp nói thêm gì, ngài Benedict mở mắt, chớp chớp vài cái, rồi lại đưa tay vuốt mái tóc trắng bù xù của mình. Rhonda dịu dàng, “Chỉ một phút thôi mà. Ngài chỉ ngủ trong vòng có một phút thôi.”



“Thật thế không? Tốt, tốt lắm. Cảm ơn các bạn của ta, cảm ơn.” Rồi ngài Benedict vỗ nhẹ vào tay Rhonda và Số Hai, nhắc họ giúp ngài đứng lên.



“Thường những lúc ta cười,” ngài giải thích với bọn trẻ, “nhưng mấy ngày gần đây lại thêm vài nguyên nhân nữa. Giờ thì, ta đang.. ? À, đúng rồi. Chúng ta đều cô đơn. Để ta giải thích cho các cháu tại sao chuyện này lại quan trọng nhé. Bởi một điều, những đứa trẻ không được bảo vệ vô tình lại phải chịu một mối đe dọa mà những đứa trẻ khác không vướng phải - ta sẽ giải thích cụ thể hơn cho cháu nào đồng ý tham gia đội của ta. Thêm nữa, đơn giản là ta chẳng thể bắt những đứa trẻ không cô đơn phải mạo hiểm. Dù nguyên nhân có quan trọng thế nào chăng nữa, chẳng bố mẹ nào lại thích để con mình gặp nguy hiểm cả. Còn bây giờ ta đang nhìn thấy được sự hiện diện của một nhóm tốt nhất mà ta có thể mong chờ - thực sự ta đã hy vọng từ lâu lắm rồi - và không thể phí phạm thêm một phút giây nào nữa. Các cháu là niềm hi vọng cuối cùng của chúng ta. Và, các cháu cũng là niềm hy vọng duy nhất mà ta có được.”