Thế Giới Kì Bí Của Ngài Benedict - Tập 1: Bút Chì, Tẩy Và Người Thắng Cuộc
Chương 5 : Người Gửi và thông điệp
Ngày đăng: 19:48 19/04/20
Cuối cùng thì cả bốn đều đồng ý gia nhập đội, cho dù mỗi người có những khó khăn riêng khi đưa ra quyết định. Kate lôi một phong kẹo cao su ra và nói “cháu tham gia” mà chẳng cần nghĩ ngợi gì. Reynie không đến vô ưu như Kate, nghĩ ngợi một lúc. Nếu không tham gia vào đội, cậu sẽ làm gì? Quay về nhà tế bần sao? Gặp lại cô Perumal thì tốt đấy, nhưng rồi cậu sẽ lại phải sống cuộc đời như trước kia: lạc lõng giữa bạn bè cùng trang lứa, cô đơn và sống không mục đích. Hơn nữa, nếu có thể tin tưởng được ngài Benedict (vì một số lý do nào đó, Reynie đã thực sự tin tưởng), thì cảm giác cô đơn sống không mục đích hay chỉ là những chuyện nhỏ bé nhất. Chuyện tồi tệ nào đó sắp xảy ra, và ngài Benedict cần chúng để ngăn nó lại. Một cảm giác rất lạ về ý thức trách nhiệm, đấy là còn chưa tính đến sự tò mò mãnh liệt, thôi thúc Reynie tham gia.
Constance còn ngờ vực nhiều hơn. Dường như đó là cách tiếp cận mọi việc của cô bé. “Vậy nếu cháu ở lại, và ngài kể cho cháu nghe bí mật lớn này, có cái gì ngăn cản cháu đi ra ngoài kia và kể lại với tất cả mọi người không?”
“Không gì cả,” ngài Benedict nói. “Cháu có quyền đi bất cứ lúc nào. Tuy nhiên, nếu ta không xác định từ trước là ta có thể tin tưởng cháu, thì cháu đã không có cơ hội được vào căn phòng này. Hơn nữa, ngay cả khi cháu kể với người khác đi nữa, thì sẽ chẳng ai tin cháu đâu, vì cháu chỉ là một đứa trẻ. Đó chẳng phải lý do ban đầu để cháu tham dự kỳ thi này sao?”
Mặt Constance cau lại như sắp khóc - hoặc có khả năng cao hơn, là sắp cười phá lên.
“Ta không có ý công kích cháu đâu cô bé,” ngài Benedict dịu dàng. “Giao kèo nhé. Nếu cháu đồng ý tham gia vào đội, thì thỏa thuận thế này: Cháu sẽ làm theo hướng dẫn của ta, nhưng là bởi cháu đồng ý làm như thế, chứ không phải vì ta bảo cháu phải làm thế. Không ai có quyền ép cháu làm bất cứ việc gì. Tất cả đều là nguyện vọng của chính bản thân cháu.”
“Được ạ,” cuối cùng Constance cũng có quyết định. Bây giờ, chúng cháu sẽ ngủ ở đâu ạ?”
“Ta biết các cháu mệt, nhưng phải đợi Sticky quyết định đã.”
Sticky khi đó đang co ro trên ghế, hai tay ôm ngang đầu gối, vùi mặt vào đó. Nghe thấy những lời của ngài Benedict, Sticky ngẩng lên với vẻ mặt hoảng loạn, rồi nhanh chóng giấu mặt đi. Giọng nói bị nghẹt lại, Sticky lầm bầm, “Cháu có thể quyết định vào ngày mai được không?”
“Ta e là không được đâu, anh bạn. Không còn thời gian để phí phạm nữa. Ta không muốn phải thúc ép cháu, nhưng cháu phải đưa ra quyết định cuối cùng vào tối nay.”
“Nếu cháu không tham gia, ngài có nghĩ mọi người vẫn tạo thành một đội đủ tốt không?” Sticky tiếp tục lầm bầm.
“Nói thẳng ra là không. Ta nghĩ đội cần cháu để có thể thành công.”
“Nếu vậy thì làm sao cháu nói không được?”
Ngài Benedict vẫn nhẹ nhàng. “Sticky, cháu lo sợ là điều hoàn toàn chính đáng thôi. Thật kinh khủng khi một đứa trẻ được đề nghị tham gia vào một nhiệm vụ nguy hiểm. Cháu hoàn toàn có quyền nói không, và ta cũng sẽ hoàn toàn không trách cháu.”
“Cố lên nào, Sticky,” Kate nói. “Sẽ thú vị đấy!”
Sticky lén nhìn từ sau đầu gối mình, đầu tiên là thấy Kate, cô bé mỉm cười và nháy mắt với cậu bạn của mình. Rồi đến lượt Reynie, “Tớ cũng sẽ giống ngài Benedict, không trách cứ nếu cậu không tham gia. Nhưng tớ sẽ thấy an tâm hơn rất nhiều nếu có cậu.”
“Đúng thế chứ?”
Reynie gật đầu.
Sticky lại vùi mặt xuống. Một lúc lâu, căn phòng trở nên yên ắng và ngập chìm trong cảm giác chờ đợi. Ngoại trừ việc Constance ngáp dài và lấy tay cào cào vết côn trùng cắn ở mắt cá, những người khác chẳng ai cử động hay nói một lời nào cả. Chỉ có tiếng thở thật khẽ và tiếng tích tắc của chiếc đồng hồ lẫn ở đâu đó giữa những cuốn sách.
Cuối cùng, Sticky ngẩng lên. “Cháu sẽ tham gia. Bây giờ thì cháu được sử dụng phòng tắm rồi chứ ạ?”
Mặc dù rất háo hức muốn được hỏi thêm, nhưng vì đã khá khuya, và mi mắt của lũ trẻ thì nặng trĩu rồi, nên ngài Benedict cho rằng bọn trẻ nên nghỉ ngơi và để dành những giải thích cặn kẽ hơn cho buổi sáng hôm sau.
Rất nhanh chóng, bọn trẻ được phát bàn chải đánh răng, bộ đồ ngủ và dép đi trong nhà để giữ ấm chân - vì tòa nhà cũ kỹ này không kín gió vào ban đêm - trước khi chúng được đưa đến phòng ngủ. Căn phòng của Reynie và Sticky nhỏ nhưng thoải mái với một tấm thảm cũ kỹ trải trên nền nhà bằng gỗ, chiếc giường tầng kê sát vào tường, và dĩ nhiên là có thêm vài giá sách. Khi đã đánh răng xong và quay trở về phòng, Reynie thấy Sticky đã ngủ gật ở cái giường tầng dưới, đèn vẫn sáng, kính vẫn đeo trên mũi, và dép thì vẫn còn nguyên ở chân. Trên ngực cậu bạn, phập phồng lên xuống cùng nhịp thở đều đều của một người đang ngủ rất say, là một cuốn sách dày về đời sống của các loài cây nhiệt đới được lôi trên giá sách xuống. Sticky đã mở đến những trang giữa. Chỉ trong vòng vài phút ít ỏi cậu bạn đã đọc được nửa cuốn sách.
Reynie kinh ngạc vô cùng. Chính Reynie là người có khả năng đọc nhanh - nhanh hơn những người lớn xung quanh - nhưng so với Sticky thì chẳng thấm vào đâu. Thật là một tài năng phi thường, và giờ thì cậu ấy đang nằm đây, ngủ khì ngon lành trong nhà của một người xa lạ. Cậu ấy chạy trốn điều gì? Đứng giữa một căn phòng sáng ánh đèn, suy ngẫm về cuộc đời Sticky, Reynie cảm nhận một thứ cảm xúc hỗn độn lạ lùng pha giữa ngưỡng mộ, yêu mến và đồng cảm - chẳng hiểu sao dù mới quen Sticky được một ngày mà Reynie lại tưởng như cả hai đã biết nhau từ lâu lắm rồi. Với Kate cũng thế, Reynie nhanh chóng cảm thấy yêu mến người bạn mới này. Còn Constance… chà… có lẽ phải đợi mới biết được.
Dù thế nào, Reynie nghĩ, nếu cuối cùng chẳng có gì xảy ra, thì ít nhất mày cũng có thêm những người bạn mới. Như thế là quá nhiều so với những gì mày có ngày hôm qua rồi. Reynie cởi đôi dép Sticky đang đi, đặt kính và cuốn sách đang đọc dở lên cái giá cạnh giường, rồi kéo chăn đắp cho bạn, cậu tắt đèn và rón rén ra khỏi phòng.
Xuôi xuống đại sảnh tối om và yên ắng - giờ này các cô gái hẳn cũng ngủ rồi. Bước xuống những dãy cầu thang kêu kẽo kẹt, Reynie quay trở lại thư phòng của ngài Benedict. Cậu nhẹ nhàng gõ cửa, và từ phía trong một giọng nói cất lên, “Cháu vào đi Reynie.”
Reynie bước vào. Chỉ có mình ngài Benedict ở đó, ông đang ngồi bệt trên sàn, lưng dựa vào ghế và xung quanh là cơ man những sách, giấy tờ và bút màu. Ngài Benedict chỉ một cái ghế và nói:
“Cháu ngồi đó nhé, chờ ta dọn dẹp cái đống này đã. Thật là một việc khó khăn khi phải làm việc trên sàn thế này, nhưng đấy là thỏa thuận giữa ta với Rhonda và Số Hai. Bọn chúng giờ cẩn thận quá mất rồi, chẳng dễ gì chúng mới chịu cho ta ở một mình trong mấy phút. Nên ta đã phải hứa là sẽ ngồi càng nhiều càng tốt - và phải ở trên sàn bất cứ khi nào có thể - thì thỉnh thoảng chúng mới cho ta được một chút riêng tư.”
Dọn dẹp xong đống giấy tờ bút mực, ngài Benedict ngồi xuống đối diện với Reynie. “Ta đang chờ cháu. Ta đoán cháu muốn gọi cho cô Perumal để thông báo tình hình.”
Reynie gật đầu.
“Cháu rất ngoan đấy. Số Hai đã kể lại với ta thái độ của cháu lúc nó cố tình làm cháu bối rối sáng hôm nay, lúc cháu nói muốn gọi cho cô Perumal. Ta đoán là cháu nhận ra thực ra đó cũng là một thử thách của kỳ thi.”
Reynie lại gật đầu. Thật ra, lúc đó, Reynie chẳng biết đâu. Nhưng giờ, nhìn lại tất cả những việc kỳ lạ đã xảy ra, cậu đã đoán ra phần nào.
“Cách cư xử của cháu thật đáng ngưỡng mộ,” ngài Benedict nói. “Lễ phép nhưng kiên định, và chu đáo nữa. Giờ ta e là cháu cũng không gọi điện được đâu, không phải là một phần của kỳ thi đâu nhé. Cô Perumal có gọi cho ta lúc cháu đang ở phòng. Mẹ của Perumal hình như đã phản ứng không tốt với loại thuốc mới và cần phải được đưa đến bệnh viện. Cô ấy nói cháu không phải lo lắng, chỉ là một phản ứng bình thường thôi và các bác sỹ cam đoan là mẹ Perumal sẽ lại lanh lợi trở lại vào sáng mai. Nhưng Perumal muốn cho cháu biết cô ấy tự hào về cháu thế nào - tự hào chứ không ngạc nhiên đâu nhé, cô Perumal nói thế đấy - và gửi lời chúc mừng cháu.”
“Bây giờ thì,” ngài Benedict nói tiếp, tháo kính và nhìn Reynie với cặp mắt màu xanh rất sáng của mình (màu mắt dường như xanh hơn nhờ vào bộ quần áo xanh ông đang mặc), “ta có thể đoán được các câu hỏi tiếp theo của cháu đấy. Việc đầu tiên là, ta đã thu xếp ổn thỏa với ngài Rutger của nhà tế bần. Chúng ta có đủ nguồn lực và kỹ năng để làm rất nhiều việc mà các cháu không hình dung được đâu. Thứ hai, nghiêm túc nhé: cháu không được liên lạc với cô Perumal nữa. Ta e rằng nhiệm vụ chúng ta đang thực hiện không cho phép cháu làm thế. Đó là để bảo vệ cho Perumal, và cả chính bản thân cháu nữa. Nhưng nếu mọi việc diễn ra tốt đẹp - chúng ta ai cũng hy vọng như vậy cả - cháu có thể gặp lại cô ấy. Thật ra, chúng ta buộc phải thành công trong một thời gian rất ngắn, và vì thế mà cơ hội đoàn tụ của cháu với cô giáo sẽ đến sớm hơn, chẳng sớm thì muộn.
Reynie lại gật đầu, nhưng cái gật đầu chẳng còn vẻ can đảm như trước đó, rồi cậu quay mặt đi giấu những giọt nước mắt đã dâng trong mắt. Dù cũng đã lường trước tình huống này, nhưng Reynie vẫn thấy buồn bã khi nghĩ đến việc có thể chẳng bao giờ lại được ngồi uống trà cùng cô Perumal, hay cố gắng dùng vốn tiếng Tamil ít ỏi của mình để kể cho cô về những chuyến phiêu lưu của mình nữa. Nghĩ ngợi về những gì đang đợi mình ở phía trước khiến Reynie thấy buồn, và cả lo sợ nữa.
“Ta xin lỗi, Reynie,” ngài Benedict ngập ngừng.
Reynie chưa thể quay lại nhìn ngài Benedict ngay. Vẫn quay mặt đi chỗ khác, cố thở sâu và đưa tay quệt vội nước mắt, để cố tự trấn tĩnh mình. Đến khi cảm thấy mình đã bình tĩnh trở lại, Reynie quay lại nhìn ngài Benedict - lúc đó đã ngủ ngon lành trên ghế.
Vậy nhưng trước khi Reynie kịp đứng dậy và nhón chân đi ra khỏi phòng, ngài Benedict đã mở mắt và kéo tay cậu lại. “Thứ lỗi cho ta, Reynie,” ông nói, hắng giọng và đưa tay vuốt lại mái tóc bù xù của mình. “Ở lại thêm chút nữa, ta muốn hỏi cháu một số chuyện. Ta không ngủ lâu quá, phải không? Ta tin ta đã không bắt cháu phải đợi quá lâu.”
“Dạ không. Chỉ một hai phút thôi ạ.”
“Thế thì tốt. Thường thì chỉ một hoặc hai phút thôi, nhưng thỉnh thoảng thì lâu hơn đấy. Bây giờ, ta muốn hỏi cháu một chuyện...”
“Vâng ạ?”
“Có liên quan đến bàn cờ ở vòng thi thứ nhất ấy. Cháu là thí sinh duy nhất từ trước đến nay trả lời đúng, và ta rất muốn nghe cháu giải thích rõ hơn. Trên bàn cờ rõ ràng là chỉ có quân tốt đen không còn ở vị trí xuất phát nữa, trong khi tất cả các quân cờ khác có vẻ như chưa hề di chuyển. Trong khi theo luật cờ vua, quân trắng bao giờ cũng được đi trước. Vậy thì tại sao cháu lại trả lời nước đi đó là đúng luật?”
“Đó là vì các cháu coi trọng sự thật,” ngài Benedict nói. “Các cháu...”
Số Hai ngắt ngang lời ngài Benedict. “Thưa ngài, trước khi tiếp tục, sao ngài không ngồi xuống đi ạ? Ngài đứng như thế làm cháu căng thẳng lắm ạ. Có quá nhiều vật cứng ở xung quanh đây. Hãy nhìn chiếc ghế kìa, rồi cái bàn, cái tủ tivi, và những dụng cụ này nữa...” Quay nhìn khắp phòng, Số Hai chỉ cái này, cái kia, gần như chỉ tất tần tật những thứ cô nhìn thấy.
“Được được, Số Hai, ta ngổi đây,” ngài Benedict nói rồi ngồi xếp bằng xuống sàn nhà, ra hiệu cho những người khác ngồi xuống cùng mình. Bọn trẻ đặt bừa mấy cuốn sách, giấy tờ, và máy móc ra chỗ khác để tìm chỗ ngồi. Số Hai hít một hơi thật sâu để lấy lại bình tĩnh.
“Các cháu biết đấy,” ngài Benedict tiếp tục, “mặc dù hầu hết mọi người đều quan tâm đến sự thật, nhưng dưới những tình huống cụ thể, hoặc khi bị thuyết phục - họ có thể bị làm cho sao nhãng. Thế nhưng, có những người tuyệt đối trọng sự thật, trong đó có trẻ em. Não của các cháu đang chống lại những thông điệp bí ẩn đó.”
“Có phải vì thế mà trong bài thi có câu hỏi về tivi và radio không ạ?” Reynie hỏi.
Ngài Benedict gõ gõ lên mũi. “Chính xác. Có thể các cháu thỉnh thoảng muốn xem một chương trình tivi nào đó, hoặc thỉnh thoảng có nghe đài, nhưng nhìn chung các cháu đều không thích hai thứ này. Là bởi vì não của các cháu không muốn bị lừa gạt nên cố gắng tránh tiếp xúc với những thông điệp đó.”
“Cháu vẫn chưa thấy, có gì nguy hiểm,” Constance nói vẻ chán nản. “Tóm lại là mọi người đang liên tục nhận được những suy nghĩ của một đứa trẻ và họ không hề hay biết điều này. Có vẻ chẳng đáng để sợ hãi.”
“Chúng ta chưa đến phần đáng sợ mà,” ngài Benedict trả lời với vẻ mặt nghiêm trọng.
“Ổ,” Constance nói.
“Tuyệt,” Sticky nói
“Có điều gì đó sắp xảy ra,” ngài Benedict nói. “Một điều gì đó khủng khiếp. Những thông điệp đó có liên quan, nhưng đây mới chỉ là bắt đầu. Điều sắp xảy ra sẽ tồi tệ hơn, hơn rất nhiều - một bóng tối ám ảnh kinh hoàng, cũng giống như những đám mây bão kia đang lan rộng ra che khắp cả bầu trời.”
“Gi-ì ạ,” Sticky lắp bắp, “nhưng nó là cái gì kia ạ?”
Ngài Benedict vần vò mái tóc vốn đã rối bù của mình. “Ta e là ta cũng không biết.”
Bọn trẻ nhắm nghiền mắt. Ngài ấy đang đùa sao? Ngài ấy không biết?
“À, ta nhìn thấy vẻ bối rối của các cháu,” ngài Benedict nói. “Đáng ra ta nên nói rõ là ta không biết chính xác.”
Rhonda lên tiếng. “Chúng ta có lý do để phải tin vào cái điều khủng khiếp đang đến kia đấy. Đó chỉ là...”
“Nhưng nếu có lý do để tin,” Constance chen ngang, “thì tại sao mọi người lại chỉ loanh quanh ở đây? Gọi cho chính phủ! Cảnh báo các cơ quan liên quan!”
“Một gợi ý hay đấy, Constance,” ngài Benedict nói (Reynie thấy rõ ràng là ngài ấy rất rộng lượng trước thái độ chẳng hề lịch thiệp của Constance). “Thực ra, ta từng là một cố vấn được tín nhiệm của một số quan chức cấp cao, trong đó có những người đứng đầu các cơ quan chính phủ. Nhưng mọi thứ đã thay đổi. Không chỉ các cơ quan này bị đánh đổ - và một số người tốt bị mất tích - mà có vài người vốn trước đây tin vào những nhận định của ta giờ lại nghi ngờ. Họ bắt đầu nhìn ta giống như một kẻ lập dị thân thiện, và có người còn nghi ngờ ngay chính ta nữa. Bây giờ ta làm mọi thứ trong bí mật.”
“Có phải ngài vừa nói ‘một số người tốt bị mất tích’?” Reynie hỏi mà trong lòng đang cầu mong mình đã nghe nhầm.
“Biến mất,” ngài Benedict nói. “Vài năm trước đây, lần đầu ta để ý thấy một số người có trách nhiệm biến mất, ta đã hỏi về họ. Nhưng những câu hỏi của ta - dù là hỏi ai - mà thật sự thì ta đã hỏi rất nhiều người - đều được đáp lại với một sự thờ ơ lạ lùng. Họ nói bảo những câu hỏi đó hết sức ngớ ngẩn. Bằng cách nào đó, họ đều tin rằng những cán bộ mất tích đó được chọn - được giao một công việc mới béo bở ở những nơi đầy nắng, có thể, hoặc nghỉ hưu sớm - mặc dù chả có bất cứ bằng chứng nào. Dường như chẳng ai thèm quan tâm xem những người đó đã đi đâu. Nhưng ai cũng biết, và vì thế hết lần này đến lần khác họ nói với ta rằng, ai cũng biết những cán bộ đó không mất tích. Không, không, cái cách lý giải đó thật là vô lý.”
Bọn trẻ điếng người. Các cán bộ của chính phủ mất tích và chẳng ai thèm quan tâm? Thậm chí chẳng ai buồn tin nữa cả?
Reynie thấy giọng mình cất lên đầu tiên. “Vậy đó là lý do vì sao ngài biết đến những thông điệp lạ đang tác động đến con người?”
Ngài Benedict gật đầu. “Khá đúng đấy, Reynie. Ít nhất đó cũng là một ví dụ.”
“Đợi một phút,” Kate nói. “Sao ngài biết được những thông điệp có liên quan đến việc này?”
“Vì đoạn ta nghe thấy từ Máy thu,” Reynie nói. “Người mất tích không phải là bị mất tích, chỉ là đang bị chia cách. Cậu không nghĩ là có liên quan à?”
“À đúng rồi nhỉ,” Kate nói, rõ là trước đó cô bé đã quên mất câu này rồi.
Constance có vẻ thất vọng. “Được rồi, vậy là chính quyền đang bị dồn vào tình thế khó khăn bởi những thông điệp bí ẩn kia. Nhưng làm thế nào họ che giấu được sự thật? Sao ngài không đưa cho họ xem cái Máy thu của ngài? Họ sẽ phải tin chứ.”
“Ta e là họ sẽ không tin,” ngài Benedict nói. “Chỉ riêng cái Máy thu là không đủ. Họ sẽ cho rằng những thông điệp đó do chính ta tạo ra, do chính cái Máy thu này phát ra. Ta không còn được coi là một nguồn thông tin tin cậy nữa rồi.”
Reynie bối rối. “Nhưng ngài Benedict, nếu ngài chỉ ra cho họ cách thức hoạt động - ý cháu là giải thích một cách khoa học - thì sao họ có thể không tin được? Và chắc chắn là ngài còn có thể mô tả lại những nguyên lý liên quan nữa mà?”
Ngài Benedict do dự. “Một gợi ý hay đấy, Reynie. Rất... Để ta xem nào. Nói thế nào được nhỉ? Ta không chắc chắn... Ừm...”
Số Hai ngắt ngang. “Điều mà ngài Benedict thấy khó khăn là ngay cả khi ngài làm như thế, cũng không ai tin ngài vì không ai có thể hiểu cả. Đó là điều bất lợi khi bạn là một thiên tài đấy - khi bạn hiểu được một điều không có nghĩa là những người khác cũng thế. Mà ngài Benedict lại quá khiêm tốn, ông chẳng muốn đưa chính mình ra để chứng minh điều đó đâu.”
“Ông ấy đã thử giải thích với một số người,” Rhonda thêm vào. “Nhưng tất cả họ đều nghi ngờ, chỉ có Số Hai và chị cùng một số ít trợ lý khác là những người duy nhất có thể hiểu được.”
Khuôn mặt ngài Benedict ửng đỏ vì bối rối. Ông ho lên một tiếng. “Như thường lệ, các bạn của ta, các cháu đánh giá ta quá cao rồi. Tuy nhiên, bản chất những gì các cháu vừa nói là đúng. Thật khó để tìm được ở các cơ quan công quyền một người chịu lắng nghe.”
“Nói cách khác, so với ngài, họ đều là những kẻ đần độn,” Kate bật cười.
“Đó có lẽ là cách diễn tả bất lịch sự nhất đấy, Kate,” ngài Benedict nói.
Không giống Kate, những đứa trẻ khác chẳng có tâm trạng để mà cười nữa. Những thông điệp bí ẩn đang được gửi đi khắp thế giới, những người tốt thì mất tích, không thể thuyết phục được chính quyền - và thế nào đó trẻ em lại liên quan đến tất cả những chuyện này. Viễn cảnh đó khiến cho thứ cảm giác sợ hãi sâu sắc, không tài nào nắm bắt được dần xâm chiếm suy nghĩ của bọn trẻ.
Constance, phản ứng của cô bé lúc này đã không còn thực sự khó đoán nữa, bực bội. “Được rồi, cháu hiểu rồi. Nhiều người biến mất không để lại dấu vết, và ai đó đang gửi đi những thông điệp bí ẩn, và không ai tin ngài về điều đó. Nhưng không phải chúng ta đang thực sự gặp nguy hiểm, phải không ạ?” (Mặc dù giọng nói của Constance đầy vẻ mỉa mai và tức giận, nhưng rõ ràng, ánh mắt liếc ngang liếc dọc của cô đã hé lộ nỗi sợ hãi.) “Ngài nói chúng ta đều đang gặp nguy hiểm... nhưng đó chỉ là phóng đại lên thôi, phải không ạ?”
“Ta rất tiếc phải nói ra điều đó, Constance,” ngài Benedict nói với vẻ mặt u ám, “nhưng ta không hề phóng đại, dù chỉ là một chút. Chúng ta đang gặp nguy hiểm, ngay cả lúc này.”
Và quả đúng như thế, bỗng nhiên quả chuông ở đầu cầu thang bắt đầu kêu lên, dữ dội.