Thiên Táng

Chương 3 : Tôi không thể để anh ấy ở tây tạng trơ trọi một mình

Ngày đăng: 04:05 19/04/20


Giấy báo tử



Chứng nhận Đồng chí Vương Khả Quân đã chết trong một sự cố ở Đông Tây Tạng vào ngày 24 tháng 3 năm 1958, ở tuổi 29.



Văn phòng Quân đội Tô Châu, tỉnh Giang Tô, ngày 2 tháng Sáu năm 1958



Văn đứng sững tại bậc cửa trước Sở chỉ huy quân đội, cơn gió vùng châu thổ sông Dương Tử mang theo mưa hạ làm ướt đẫm tóc và mặt cô.



Khả Quân chết rồi ư? Người chồng mới cưới chưa đầy một trăm ngày của cô chết rồi ư? Mật ngọt của những ngày đầu sau hôn lễ đó vẫn còn phảng phất trong trái tim cô. Cô vẫn còn cảm nhận được hơi ấm của chúng. Cưới nhau gần được một trăm ngày, nhưng họ chỉ có ba tuần bên nhau. Anh ấy không thể chết được.



Khi lên đường đi Tây Tạng, anh ấy rất khoẻ mạnh, hay nói, tràn đầy nhựa sống. Bác sĩ quân y thường không phải trực tiếp tham chiến. Vậy “sự cố” ở đây nghĩa là gì? Anh ấy chết như thế nào? Tại sao không ai có thể cung cấp cho cô điều gì? Thậm chí họ không ghi thêm vài lời để chứng thực rằng anh ấy hy sinh vì cách mạng như họ vẫn thường làm đối với những người lính chết trận. Tại sao?



Trong vô vàn những “Báo cáo Chiến thắng từ Quân giải phóng Nhân dân ở Tây Tạng” tuôn về như thác lũ, chẳng thấy đề cập đến một sự cố nào mà trong đó Khả Quân có thể chết. Những cán bộ ở văn phòng quân đội chịu trách nhiệm an ủi vợ con những người lính đã chết nói riêng với Văn rằng họ không nhận được bất kỳ bản tin chiến trường thông thường nào từ Tây Tạng.



Văn đứng trên đường phố Tô Châu, không chú ý gì đến mưa. Nhịp sống sôi động của thành phố tiếp diễn xung quanh cô, nhưng cô chẳng nhận thấy gì. Một giờ trôi qua, rồi một giờ nữa. Cô đắm chìm trong đau đớn và hoang mang. Tiếng chuông Hàn Sơn Tự ngân nga lôi cô từ nỗi buồn đau trở lại. Quay về bệnh viện nơi cô làm việc, lần đầu tiên thực sự cô đơn, một ý nghĩ vụt qua tâm trí cô. Điều gì đã xảy ra nếu Khả Quân chỉ rời khỏi đơn vị, giống như tất cả những người lính bị báo tử nhầm trong khi thực ra họ đang trên đường về nhà? Có thể anh ấy đang gặp nguy hiểm, hay ngã bệnh. Cô không thể để anh ấy một thân một mình ở Tây Tạng được.



Ý nghĩ sẽ đi tìm Khả Quân loé lên trong cơn mưa buốt giá đó đã trở nên mãnh liệt đến độ, bất chấp mọi nỗ lực can ngăn cố gắng của gia đình, bạn bè, đồng nghiệp, Văn nhất quyết gia nhập vào trung đoàn của chồng cô để tới Tây Tạng. Cứ tìm thấy cơ quan chính quyền nào là cô lại lao tới, mắt đẫm lệ trình ra giấy đăng kí kết hôn, bức thư chia tay của Khả Quân, thậm chí cả vài món đồ cá nhân của anh - khăn tắm, khăn mùi xoa, cốc uống trà - cho những người cô gặp xem. “Chắc chắn chồng tôi còn sống,” cô khăng khăng nói. “Anh ấy không bỏ lại người vợ mới cưới và là mẹ tương lai của con anh ấy đâu.”



Ban đầu những cán bộ quân đội nghe cô nói chuyện đều cố gắng khuyên can cô không gia nhập quân đội, nhưng khi nghe nói cô là bác sĩ, họ không phản đối nữa. Quân đội thiếu bác sĩ trầm trọng và có rất nhiều lính ở Tây Tạng đang mắc bệnh do độ cao. Trình độ nghiệp vụ bác sĩ da liễu của cô thậm chí sẽ khiến cô hữu ích hơn nữa: có rất nhiều ca da cháy nắng vì độ cao. Người ta quyết định Văn sẽ đến thẳng Tây Tạng. Nhu cầu khẩn cấp về bác sĩ cùng nỗi bức thiết tìm chồng càng sớm càng tốt của chính cô khiến cho khoá huấn luyện dài ngày mà chồng cô đã phải trải qua trở nên hoàn toàn không cần thiết đối với cô.



Rồi cái ngày Văn rời Tô Châu đã đến. Chị gái cùng cha mẹ già tiễn cô một quãng xa tới tận bến xe khách bên sông. Không ai nói một lời. Không ai biết nói gì. Chị gái ấn vào tay Văn một chiếc túi đeo vai làm bằng lụa Tô Châu nhưng không nói có cái gì trong đó; cha cô lặng lẽ đặt một cuốn sách vào trong chiếc balô quân phục mới được phát của cô; mẹ cô giắt chiếc mùi xoa đẫm nước mắt vào nắp khóa đính trên chiếc áo choàng của Văn. Mắt đẫm lệ, Văn trao giấy đăng ký kết hôn của cô cho mẹ. Người ta chỉ có thể giao phó những thứ vô cùng quan trọng cho chính mẹ mình. Cô trao cốc uống trà cùng khăn tắm của Khả Quân cho cha vì biết ông yêu quý chàng rể biết chừng nào. Sau đó cô đưa cho chị gái - chị biết tất cả bí mật của Văn - một gói đồ chứa thư từ và tài liệu của Khả Quân, cùng với những lá thư tình yêu của hai người.



Mây tối đen mù mịt quyện với khói bếp từ những ngôi nhà mái xám tường trắng trong vùng bao trùm lên gia đình Văn khi họ nhìn cô leo lên xe khách. Qua khung cửa sổ rung lên bần bật, Văn thấy bóng dáng gia đình cô cứ nhỏ dần, cuối cùng biến khỏi tầm nhìn. Cô nhìn Tô Châu lần cuối: những ngôi nhà cùng những chiếc cầu nhỏ bắc qua dòng nước chảy; những đền chùa trên sườn đồi nhìn xuống mặt hồ; bãi rau xanh tốt của vùng châu thổ sông Dương Tử, khắp nơi là những lá cờ đỏ phất phơ trong gió nhẹ.



Khi Văn mở chiếc túi lụa đeo vào mà chị gái đưa cho, cô thấy có năm quả trứng luộc bằng nước trà vẫn còn ấm, hai miếng bánh vừng, một túi hạt bí ngô, một túi củ cải xắt lát chiên chua ngọt, một lọ trà và một bức thư nhỏ, chữ nhoè nhoẹt vì nước mắt:



Em gái bé bỏng yêu quý của chị,



Trái tim chị trĩu nặng không lời nào tả xiết.



Cha mẹ chúng ta không còn trẻ nên không thể chịu đựng thêm nhiều nỗi đau trong cuộc sống nữa, vì vậy em hãy sớm quay về. Dù em mất Khả Quân thì em vẫn còn cha mẹ và chị, mọi người không thể sống thiếu em.


Lính tập trung rất đông trên sân ga, nhưng nhà ga tĩnh lặng đến kì cục. Tình cảnh chen chúc như cá mòi đóng hộp lại còn thiếu dưỡng khí khiến ai nấy kiệt sức. Văn dò kiếm dọc hàng áp phích quân đội xếp ngay ngắn trên sân ga, tìm số đơn vị cô cần.



Cuối cùng cô tìm thấy một bảng thông báo mang số 560809 do một người lính có khuôn mặt trẻ đáng kinh ngạc cầm. Cô rút từ túi trong ra tập giấy tờ quân đội mà giờ đã khá ẩm trao vào tay cậu thanh niên có khuôn mặt đó. Khuôn mặt thoáng cười còn bàn tay vẫy vẫy ra hiệu. Chuyến đi hai tuần cùng những người lính, đã dạy Thư Văn ngôn ngữ cơ thể của lính tráng, kiểu như cử chỉ vừa rồi. Khi cô đi liêu xiêu theo sau cậu lính mặt non choẹt như trẻ con, cô nghĩ hồi còn là sinh viên cô chưa bao giờ tự hỏi năm mươi sáu nhóm dân tộc Trung Quốc với hàng ngàn chất giọng địa phương sẽ giải quyết vấn đề ngôn ngữ như thế nào khi họ gặp nhau. Bây giờ cô đã nhận ra tầm quan trọng của cử chỉ và ngôn ngữ cảm xúc chung của con người.



Văn cứ tưởng rằng tới được Thành Đô là cô có thể bắt đầu hỏi han về Khả Quân ngay lập tức, nhưng khi gia nhập vào đơn vị trước đây của Khả Quân, cô phát hiện ra rằng chỉ có số hiệu 560809 là không đổi: toàn bộ đơn vị đã thay đổi, từ sĩ quan chỉ huy đến những lính bộ binh, và không ai biết trước đây chính xác đơn vị từng chiến đấu ở vùng nào trên Tây Tạng, huống hồ là tiểu đội của Khả Quân. Một sĩ quan tham mưu nói với cô rằng, căn cứ theo đội hình dàn quân trước đây, có thể họ ở một nơi nào đó gần núi Bayan Har[1] vùng Đông Bắc Thanh Hải hoang vu. Tuy nhiên, tin tức rất hiếm hoi bởi vì chẳng còn mấy người sống sót mà những người này cũng bị điều chuyển đi nơi khác rồi. Trên bìa trong cuốn Tuyển tập tiểu luận của Lương Thực Thu, Văn viết “Núi Ba Nhan Khách Lạp”. Có lẽ cô sẽ tìm kiếm thêm được thông tin chi tiết về Khả Quân trên đường đến đó - mặc dù tim cô tê buốt khi nghĩ tới chuyện còn quá ít người sống sót. “Khả Quân còn sống,” cô nhắc đi nhắc lại với chính mình.



Có hai ngày dành cho nghỉ ngơi, hướng dẫn và tổ chức lại việc vào Tây Tạng. Văn và hai bác sĩ khác được dạy cách giải quyết vài vấn đề mà họ sẽ gặp phải, kể cả căn bệnh do độ cao. Mỗi người được phát một bình ôxy di động và nhiều xy lanh dự phòng. Có trời mới biết được mình sẽ mang theo những thứ này bằng cách nào, Văn nghĩ, nếu chính mình bắt đầu mắc căn bệnh núi cao. Hầu hết mọi người đều từng bị choáng do độ cao rồi - một cơn nhức đầu nhẹ, hơi khó thở, nhưng nó sẽ trở nên tồi tệ hơn khi họ đến Tây Tạng. Độ cao trung bình của “mái nhà thế giới” vào cỡ 4.000 mét.



Cuối cùng Văn và người lính đồng hành trèo lên xe tải quân sự bắt đầu hành trình theo con đường nổi tiếng Tứ Xuyên - Tây Tạng. Trên lưng họ mang theo ít đồ đạc quấn trong chăn rồi lấy dây thừng nhỏ buộc vào balô. Đêm xuống họ chỉ việc trải chăn ra nằm ngủ dưới đất.



Đoàn xe thật đông đúc: vài tá xe tải chở gần một nghìn người. Văn bị choáng ngợp trước số lượng lính và vẻ tráng lệ của con đường. Thậm chí nó còn hoành tráng hơn cô hình dung. Rẽ chỗ nọ quặt chỗ kia liên tục, đoàn xe đưa họ qua hết rặng núi này đến rặng núi khác. Thời tiết thay đổi xoành xoạch. Vừa mới ấm áp như mùa xuân với muôn hoa đua nở đã lại bất chợt tuyết trắng rơi bốn bề. Cô cảm thấy như mình vừa bước vào chốn thần tiên, một ngày ở đây bằng nghìn năm dưới hạ giới.



Hầu hết đám lính tráng trên xe đều còn rất trẻ, độ tuổi hai mươi. Họ cười nói ầm ĩ và đấm nhau thùm thụp khi tranh cãi về những điều ít ỏi mà họ biết về Tây Tạng - những thầy tu, ẩn sĩ, dân du cư, sự tàn bạo trở thành truyền thuyết của dân vùng này. Văn có thể nói rằng, bên dưới vỏ bọc làm ra vẻ can đảm, họ đang lo lắng. Họ chẳng biết gì về cuộc xung đột mà mình đang dấn thân vào, trong khi những lời đồn đại về các đòn trừng phạt thân thể tàn khốc mà người Tây Tạng áp dụng cho kẻ thù thì đầy rẫy. Văn nhận thấy đa số đám lính trẻ này là nông dân ít học, hoàn toàn không thể hiểu một dân tộc khác lạ sống ở nơi xa xôi lạnh giá hẻo lánh đến thế. Cô nghĩ đến việc Khả Quân đã tận tâm nghiên cứu Tây Tạng ra sao, anh quyết tâm nắm vững ngôn ngữ xứ này đến nhường nào. Cô len vào một góc xe và suy ngẫm về mục đích của mình: tìm kiếm Khả Quân. Cô thu mình vào suy tư như con tằm thu mình trong kén, cô gần như không để ý đến tiếng nói chuyện liến thoắng của những người lính khác, không nhận ra những phiền phức của chuyến đi, những đêm dài lạnh cóng, những phong cảnh lạ thường. Cô chỉ bị khuấy động khi, sau nhiều ngày đi trên quốc lộ, đoàn xe ra khỏi con đường và bắt đầu chạy vào vùng đồng cỏ dường như trải ra vô tận theo mọi hướng. Văn không biết người ta đang đi đâu. Thậm chí cô cũng không biết là đang đi về phía Bắc hay phía Nam. Cô tự hỏi liệu họ có đi đến nơi nào gần núi Ba Nhan Khách Lạp không. Cô không lường trước tình huống sẽ gặp một quang cảnh chẳng có bất kỳ loại mốc ranh giới nào ở xung quanh để xác định vị trí như thế này. Vẫn chưa nhìn thấy dù chỉ một dấu hiệu nào chứng tỏ có người sống ở đây.



Đoàn xe cứ chạy một chặp thì lại phải dừng, và những ca choáng độ cao bắt đầu tăng lên. Vài người lính trong xe kêu đau đầu, vài người còn không thể thở bình thường, có người còn khó lòng đứng vững. Là một trong ba bác sĩ duy nhất trong đoàn quân hơn một nghìn lính, Văn phải chạy ngược chạy xuôi, lưng mang xy lanh ôxy di động, dạy đám lính cách thở trong khi truyền ôxy cho những người đã rơi vào trạng tháng nửa tỉnh nửa mê.



Vừa lúc mọi người bắt đầu thích nghi với khí hậu, Văn nhận thấy có gì đó tồi tệ đang xảy ra. Đoàn xe đang đi chậm lại và họ có thể nghe thấy tiếng súng nổ rải rác ở đằng xa. Thỉnh thoảng họ ngờ như mình nhìn thấy bóng người ẩn sau những tảng đá và bụi cây. Họ bắt đầu sợ bị phục kích. Trong vòng vài ngày, địa hình hiểm trở buộc đoàn xe phải chia ra thành vài nhóm nhỏ, xe của Văn được bố trí ở trong nhóm chỉ có bảy xe. Dù người ta cho rằng khu vực mà họ đang đi qua đã được Quân Giải phóng “giải phóng” nhưng hầu như chẳng thấy dân địa phương, không có đơn vị quân đội nào, không một tín hiệu nào tới được chỗ những người điều khiển đài phát thanh. Nỗi lo âu bắt đầu gặm nhấm dần đám lính trên xe, trong khi sự trống lộng của những ngọn núi, độ loãng của không khí và những thay đổi khắc nghiệt của thời tiết bao bọc họ trong một thế giới đầy sợ hãi.



Vào ban ngày họ tìm thấy chút an ủi từ phong cảnh khác lạ và những sinh vật mà họ bất ngờ bắt gặp dọc đường như chim chóc hay động vật. Nhưng về đêm, nhiệt độ đột ngột giảm mạnh, những âm thanh của muông thú cùng tiếng gió rít ào ạt qua cây cối, Văn và những người đồng hành cảm thấy bị mắc kẹt nửa đường giữa thế giới này và thế giới kia. Không ai biết trong khoảnh khắc tiếp theo đây điều gì sẽ xảy ra. Họ chờ đợi cái chết đến bất cứ lúc nào. Họ túm tụm vào nhau quanh đống lửa trại và cố gắng hết sức để ngủ. Văn nằm thao thức lắng nghe tiếng gió. Dường như cô nghe tiếng giọng nói của Khả Quân trong cây cối, cảnh báo cô hãy cẩn thận, đừng để người ướt sương hay bị bỏng rộp lửa trại, đừng đi ra ngoài một mình.



Một buổi sáng, khi nhóm người thức dậy lúc rạng đông thì phát hiện ra xác chết cứng đơ của hai người lính, hai con dao Tây Tạng bóng loáng thòi ra từ ngực họ. Lính canh gác thì thầm xác nhận với nhau rằng trong suốt cả đêm dài họ không nghe thấy dù chỉ một tiếng động nào. Những con dao chắc đã được phóng cực kì chính xác.



Ngày tiếp theo, rồi lại ngày tiếp theo nữa, chuyện tương tự xảy ra đúng như vậy: bất kể có bao nhiêu lính gác, hay đốt bao nhiêu đống lửa đi nữa, cứ vào lúc rạng đông khi những người lính mệt lử thức giấc là lại nhìn thấy ngay hai xác chết bị đâm bằng dao Tây Tạng. Không còn nghi ngờ gì nữa: Họ đang bị săn đuổi.



Không ai có thể lý giải được tại sao mỗi lần chỉ có hai người lính bị giết. Người làm chuyện này không lựa chọn phương án tấn công toàn bộ đoàn xe, mà lại chơi một trò nham hiểm hơn.



Bởi vì hai trong số những người lính đã chết là lái xe và không có ai khác biết lái xe nên họ buộc phải bỏ lại hai xe và chen chúc vào những xe còn lại. Sự im lặng chết chóc bao trùm toàn đoàn xe. Văn biết mọi người đang ngẫm nghĩ về cái chết bất đắc kỳ tử có thể ập xuống đầu họ.



Văn không sợ chết. Cô cảm thấy mình đang tới gần Khả Quân hơn nữa. Thỉnh thoảng, thậm chí cô còn hy vọng mình đã đi vào ranh giới giữa cõi sống và cõi chết. Nếu Khả Quân ở phía bên kia rồi thì cô muốn nhìn thấy anh càng sớm càng tốt, bất kể anh đang ở trong cảnh địa ngục tối tăm cỡ nào đi nữa.



Vào một buổi chiều, có ai đó trên xe vừa chỉ về phía xa vừa la lên, “Nhìn kìa - có cái gì đang di chuyển!” Đúng vậy, theo hướng anh ta chỉ, có cái gì đang lê lết trên mặt đất. Văn thấy một người lính định bắn nên vội ngăn anh ta lại. “Nếu đó là một cái gì nguy hiểm thì nó đã tấn công chúng ta hoặc bỏ chạy rồi,” cô lập luận. Người chỉ huy của nhóm ở cùng xe với Văn tình cờ nghe thấy cô nói. Anh ta ra lệnh dừng xe rồi cử vài người lính đi điều tra. Họ nhanh chóng quay về mang theo vật gì đó trên lưng: đó là một người Tây Tạng bẩn đến không tưởng tượng được. Chẳng xác định nổi nam hay nữ, vàng bạc châu báu sáng rực kêu chói tai phủ khắp người.