Thiên Táng

Chương 4 : Zhuoma

Ngày đăng: 04:05 19/04/20


Văn nhẹ nhàng lau sạch bụi bẩn để lộ ra một khuôn mặt có nước da màu nâu đỏ ấm áp, hai gò má cháy nắng. Văn nhận ra khuôn mặt điển hình của một phụ nữ Tây Tạng - đôi mắt sẫm màu biểu cảm hình quả hạnh, miệng gợi cảm với môi trên mỏng môi dưới đầy đặn, mũi rộng và thẳng. Nhưng nét mặt trẻ trung có vẻ vừa bị tổn thương do phải trải qua thử thách hãi hùng hay bạo bệnh - đôi mắt đỏ ngầu trông bơ phờ, với cái miệng phồng rộp đau đớn người phụ nữ chỉ có thể nói líu ríu những âm thanh không ai hiểu được. Có lẽ cô ta không dính dáng tới những vụ giết người trong đêm gần đây - một suy nghĩ vụt qua đầu Văn - cô ta đang dở sống dở chết thế kia mà.



Một người lính đưa cho Văn bình nước, cô đổ từ từ từng giọt vào miệng người phụ nữ. Khi cơn khát qua đi, người phụ nữ thì thầm bằng tiếng Trung Quốc hai từ: “Cảm ơn.”



“Cô ta nói được tiếng Trung Quốc!” một người lính hét lên với đám người đứng xem. Mọi người rất kích động: đây là lần đầu tiên họ ở gần một người Tây Tạng đến thế, mà cô ta lại nói được tiếng Trung Quốc nữa.



Ngay lập tức ai cũng bắt đầu tự hỏi liệu cô ta có thể giúp họ ngăn chặn những cuộc tấn công tiếp theo không, biết đâu cô ta có thể bảo vệ bằng cách nào đó. Văn nhận ra người chỉ huy nhóm liếc về phía cô khi anh bàn bạc với những sĩ quan từ các xe tải khác. Cô nghĩ chắc họ đang tranh luận xem phải làm gì với người phụ nữ Tây Tạng.



Vị chỉ huy đi tới chỗ Văn: “Có chuyện gì với cô ta thế? Cô ta có ích lợi gì cho chúng ta không?”



Văn thấy rõ mạng sống của người phụ nữ đang nằm trong tay cô. Sau khi bắt mạch và dùng ống nghe để nghe kỹ tim và ngực cô ta, cô quay sang vị chỉ huy.



“Tôi cho là cô ta kiệt sức quá - cô ta sẽ sớm phục hồi.”



Sự thực là như thế, nhưng Văn biết dù thực tế không đúng như thế thì cô cũng vẫn nói vậy. Cô không muốn nhìn thấy người phụ nữ Tây Tạng bị bỏ rơi.



“Đưa cô ta lên xe, rồi chúng ta lên đường.” Vị chỉ huy trèo lên sàn xe mà không nói thêm lời nào.



Trên đường đi, người phụ nữ Tây Tạng chìm trong giấc ngủ mê mệt còn Văn giải thích với đám lính cùng xe rằng có thể cô ta đã không được ăn uống hay thậm chí không ngủ suốt mấy ngày đêm rồi. Cô có thể nhận thấy đám lính không tin cô lắm, nhưng họ vẫn ép chặt vào nhau để dành cho người phụ nữ Tây Tạng khoảng trống càng rộng càng tốt.



Văn nhìn chằm chằm như thôi miên vào chuỗi hạt trên cổ người phụ nữ và chiếc bùa hộ mệnh phập phồng theo hơi thở nặng nhọc của cô ta. Chiếc áo dài nặng nề của cô ta, tuy trông thô cứng và bám đầy bụi đất, có nhiều chỗ được thêu rất tinh xảo. Cô ta không phải nông dân, Văn nghĩ. Sau đó cô thầm mỉm cười khi thấy tất cả đám lính trong xe không thể rời mắt khỏi kẻ xứ lạ này, vài người mồm còn há hốc.



Văn nghĩ ngày hôm đó sẽ không bao giờ kết thúc. Con đường ngày càng trở nên gồ ghề và sụt lở khi họ chậm chạp đi qua vài con đèo vắt ngang những ngọn núi hiểm trở. Gió trở lạnh đến nỗi đoàn xe lắc lư. Cuối cùng họ dựng trại để trú qua đêm dưới một khối đá nhô ra. Vị chỉ huy đề nghị đặt người phụ nữ lại gần một trong những đống lửa trại, trước hết là để sưởi ấm vì cô ta cần hơi ấm, nhưng quan trọng hơn là để ngăn cản những tên giết người, có thể bọn chúng vẫn tiếp tục theo đuổi họ. Mọi người nằm xuống đi vào giấc ngủ đầy bứt rứt không yên.



Quãng nửa đêm, Văn nghe thấy tiếng người phụ nữ Tây Tạng phát ra tiếng rên rỉ yếu ớt. Cô ngồi dậy. “Chuyện gì thế? Cô cần gì à?”



“Nước… nước.” Giọng người phụ nữ nghe rất yếu ớt.



Văn nhanh chóng đưa nước tới, rồi lấy từ đồ ăn dự trữ một suất bột mì đầy ắp cho cô ta. Sáng sớm hôm nay, khi vừa mới tìm thấy người phụ nữ, Văn đã san sẻ bớt một chút đồ ăn từ khẩu phần của chính mình cho cô ta, nhưng bây giờ họ đã dựng trại và dỡ lương thực ra, nên cô xoay xở dành được nhiều hơn. Dần dần người phụ nữ bắt đầu phục hồi và có thể nói được.



“Cảm ơn,” cô ta nói. “Cô thật tốt bụng.” Dù người phụ nữ nói tiếng Trung Quốc rõ ràng, nhưng giọng cô ta thật lạ.



“Tôi là bác sĩ,” Văn nói, moi óc cố nhớ từ bác sĩ theo tiếng Tây Tạng mà Khả Quân đã một lần nói với cô, “Menba. Tôi có thể chăm sóc cô. Đừng nói gì. Đợi đến khi cô khoẻ hơn đã. Cô vẫn còn rất yếu.”



“Không có gì nghiêm trọng đâu, tôi chỉ kiệt sức thôi. Tôi có thể nói được.” Người phụ nữ cố hết sức dịch thân hình rũ rượi tới gần Văn hơn.



“Đừng, cứ ở đó, tôi nghe được cô nói mà. Tên cô là gì?”



“Zhuoma,”[2] người phụ nữ nói yếu ớt.



“Thế nhà cô ở đâu?”



“Tôi không có nhà. Gia đình tôi đã đi rồi.”



Mắt người phụ nữ đẫm lệ.



Văn không biết nói gì. Sau phút im lặng, cô hỏi, “Tại sao cô lại nói được tiếng Trung Quốc tốt như thế?”



“Tôi học tiếng Trung Quốc từ bé. Tôi đã đến thăm Bắc Kinh và Thượng Hải.”



Văn kinh ngạc.



“Tôi quê ở Tô Châu,” cô nồng nhiệt nói, náo nức mong người phụ nữ biết về thành phố quê hương mình. Nhưng trong phút chốc, gương mặt Zhuoma trở nên sinh động và đầy giận dữ.



“Vậy tại sao cô lại rời quê hương tới đây giết người Tây Tạng?”


Trong suốt chuyến hành trình dài, Thiên An Môn hết lòng hết dạ chăm sóc Zhuoma: tìm nước, chuẩn bị thức ăn, lượm củi, trải nệm ngủ, canh gác về đêm. Anh ta không bỏ sót việc gì. Trước đây Zhuoma chưa bao giờ sống ngoài trời nên không biết giúp đỡ anh ta như thế nào. Khi ngồi cạnh đống lửa trại bập bùng hay ngồi xóc nảy trên lưng ngựa, cô say sưa đắm chìm vào tình yêu câm lặng của anh. Mặc cho tình cảnh tuyệt vọng của họ, cô cảm thấy hy vọng và hạnh phúc. Nhưng sau đó thời tiết thay đổi. Một trận gió lớn tràn qua thảo nguyên, mang theo bão tuyết cuồn cuộn cuốn theo tất cả những gì vấp phải trên đường đi. Lũ ngựa di chuyển rất khó khăn nên Zhuoma và Thiên An Môn chỉ có thể ì ạch tiến từng tí một. Nhận ra nếu tiếp tục đi như thế này thật quá nguy hiểm, Thiên An Môn sắp xếp một chỗ cho Zhuoma đã kiệt sức ngủ trong nơi tránh giá lạnh dưới một tảng đá lớn. Sau đó anh dọn chỗ cho mình ngay hướng gió lùa, lấy thân mình che chắn cho cô.



Vào giữa đêm, Zhuoma bị tiếng gió hú đánh thức. Cô hét lên gọi Thiên An Môn nhưng không có tiếng trả lời. Cô gắng sức đứng lên nhưng không thể giữ thăng bằng trong cơn bão, thế là cô đành bò rồi vừa tìm kiếm vừa hét gọi. Không thể tìm thấy đường trong bóng tối như hắc ín, cô chẳng có cái mốc nào để định hướng mình đang ở đâu. Cuối cùng cô ngất đi và rơi từ gờ núi xuống một hẻm đá.



Khi Zhuoma tỉnh lại, bầu trời đã được gột rửa xanh tươi. Cô đang nằm trên triền dốc đá của một con mương. Không có dấu vết của Thiên An Môn, đồ dùng cá nhân của anh hay bất cứ hành lý gì của họ. Bầu trời xanh lặng thinh nhìn xuống trong khi cô khóc lóc; phía trên đầu cô vài con chim kền kền bay vút lên, kêu quang quác đáp lại tiếng khóc của cô.



“Tôi liên tục gào thét gọi tên Thiên An Môn cho tới khi cổ họng khản đặc,” Zhuoma nói. “Tôi không biết phải làm gì tiếp theo. May thay, tôi không bị thương, nhưng tôi không biết mình đang ở đâu hay phải đi đường nào. Tôi là con gái nhà quý tộc: tôi đã quen có người hầu chăm sóc rồi. Tôi chỉ biết mặt trời mọc đằng Đông, lặn đằng Tây. Tôi đi bộ suốt nhiều ngày mà không gặp thậm chí lấy một người nào. Sau đó tôi gục xuống vì lạnh và đói. Đúng lúc nghĩ mình sắp chết, tôi nghe thấy tiếng xe của cô và tôi cầu Đức Phật cho cô sẽ nhìn thấy tôi.”



Có một khoảng im lặng kéo dài trong cabin xe tải. Văn không biết phải nói gì với Zhuoma sau tất cả những gì cô nghe được. Cuối cùng người lái xe lên tiếng đầu tiên. Mặc dù có vẻ đang phải tập trung vào con đường khó khăn, nhưng anh ta đã nghe trọn mọi lời.



“Cô có nghĩ là Thiên An Môn vẫn còn sống không?” anh ta hỏi.



“Tôi không biết,” Zhuoma trả lời.” Nhưng nếu anh ấy còn sống, tôi sẽ lấy anh ấy.”



Tối hôm đó, mọi người sợ không dám ngủ. Xung quanh những đống lửa trại, những người lính kiệt sức ngồi xây lưng lại nhau, một nhóm quay mặt về phía lửa, nhóm kia canh chừng bóng tối. Cứ mỗi giờ họ lại đổi vị trí cho nhau.



Khi họ ngồi đó, Văn nhớ ra điều gì. Cô quay sang Zhuoma.



“Khi chúng tôi bị tấn công vào sáng nay, cô đã hét lên câu gì đó bằng tiếng Tây Tạng. Nó có nghĩa là gì vậy? Làm thế nào mà cô biết người Tây Tạng đã tới?”



“Tôi nghe thấy họ thì thầm những câu nghi lễ mà người Tây Tạng thường thốt ra như một tín hiệu khi giết người. Tôi muốn họ đừng làm thế, rằng có một người Tây Tạng trong nhóm…”



Văn đang định hỏi thêm thì Zhuoma lại hét lên, tiếng thét chói lói, tuyệt vọng khiến cho tất cả mọi người dựng tóc gáy.



Khi tiếng hét yếu dần rồi tắt hẳn, những người ở vòng ngoài có thể nhìn thấy những bóng đen di chuyển về phía họ.



Bản năng mách bảo với Văn rằng chớ ai nên cử động, chỉ cần bất kỳ ai động đậy thì sẽ chết. Trong vài giây, vô số người Tây Tạng trang bị dao và súng ống đã vây quanh họ. Văn nghĩ cái chết đã đến. Sau đó, một bài hát u buồn bồng bềnh nổi lên bay vào không trung. Bài hát có giai điệu Tây Tạng nhưng lời là tiếng Trung Quốc:



“Núi tuyết ơi, tại sao người không khóc? Trái tim người quá lạnh lùng sao?



“Núi tuyết ơi, tại sao người khóc? Trái tim người quá đớn đau sao?”



Mọi người nhìn Zhuoma khi cô vừa tiếp tục hát vừa từ từ đứng lên đi về phía vị thủ lĩnh của nhóm người Tây Tạng. Trước tiên cô thực hiện màn chào hỏi theo kiểu người Tây Tạng, sau đó cô rút một vật trang trí từ trong áo dài ra đưa cho ông ta xem. Trông thấy vật trang trí này, vị thủ lĩnh Tây Tạng thay đổi thái độ ngay lập tức. Ông ta ra hiệu cho thuộc hạ, tất cả bọn họ lùi lại một bước. Sau đó ông ta đáp trả màn chào hỏi của Zhuoma và bắt đầu nói chuyện với cô bằng tiếng Tây Tạng.



Văn và mọi người trong nhóm không biết hai người đang nói gì, nhưng họ chắc chắn rằng Zhuoma đang cố gắng tìm cách bảo vệ họ. Sau nhiều phút căng thẳng, Zhuoma quay lại. Cô nói là nhóm người Tây Tạng muốn trừng phạt họ. Trên đường tiến về hướng Tây, Quân Giải Phóng Nhân Dân đã dập tắt những ngọn lửa vĩnh cửu trong các tu viện và giết nhiều người chăn gia súc của họ. Nhóm người Tây Tạng này tin rằng có 231 người chăn gia súc đã bị mất tích và họ lấy mạng người Trung Quốc với số lượng nhiều gấp đôi để bù vào. Mặc dù Zhuoma cố thương lượng với họ nhưng họ từ chối khoan dung, họ lập luận rằng nếu phóng thích những người Trung Quốc này thì khác gì lại cho phép họ giết thêm người Tây Tạng. Tuy nhiên, vị thủ lĩnh Tây Tạng nói ông ta sẽ cho họ một cơ hội nếu họ đồng ý ba điều kiện. Thứ nhất, người Tây Tạng muốn mang theo mười người Trung Quốc làm con tin, con tin sẽ bị giết chết nếu Quân Giải phóng giết thêm bất cứ người nào của họ; thứ hai, họ muốn người Trung Quốc quay trở lại vùng đất của mình ở phía Đông và không bao giờ lại tiến thêm một bước nào về phía Tây nữa; thứ ba, người Trung Quốc phải bỏ lại toàn bộ vũ khí và trang thiết bị, bao gồm cả xe tải.



Người lính thông tin tranh luận rằng đi bộ quay trở về mà không có thức ăn hay nước uống khác gì đi vào chỗ chết. Zhuoma bảo anh ta rằng người Tây Tạng sẵn sàng để lại cho họ ít thịt khô.



Từ đầu đến cuối, vị chỉ huy nhóm hết sức im lặng. Đến lúc này anh ta mới yêu cầu Zhuoma quay trở lại chỗ người Tây Tạng và đề nghị họ cho phép anh ta gặp riêng người của mình.



Zhuoma đi không lâu lắm thì quay lại. “Họ đồng ý,” cô nói. “Mọi người đặt hết vũ khí xuống đất và đứng ra đằng kia.”



Vị chỉ huy mở khoá đai đeo súng, đặt nhẹ xuống đất, sau đó quay sang nói với cấp dưới của mình.



“Tất cả Đảng viên đặt vũ khí xuống đất như tôi làm, sau đó theo tôi ra họp ở đằng kia. Những người còn lại cứ ở đây.”



Cỡ khoảng hai mươi hay ba mươi lính rời khỏi đám đông im lặng, bị quân Tây Tạng canh chừng. Vài phút sau, một số người trong bọn họ quay trở lại hàng ngũ, nhưng còn mười hai người vẫn ở lại cạnh vị chỉ huy. Người chỉ huy yêu cầu Zhuoma nói với người Tây Tạng rằng dù họ chỉ yêu cầu mười con tin nhưng mười hai Đảng viên muốn được sống chết cùng nhau. Cảm động thấy rõ trước tinh thần tự nguyện hy sinh của hai con tin thêm vào, người Tây Tạng đưa cho nhóm người Trung Quốc sắp quay về không chỉ thịt như đã hứa mà còn thêm vài bầu da thú đựng nước cùng mấy con dao.



Hai người phụ nữ vẫn ở đằng sau người Tây Tạng. Văn kể cho Zhuoma đôi điều về chuyện cô tìm kiếm Khả Quân và mong ước của cô là được đi về phía Bắc theo hướng Thanh Hải. Nhờ có ảnh hưởng của Zhuoma, vị thủ lĩnh người Tây Tạng đồng ý cho họ đi cùng nhóm của ông ta về phía Tây. Cho tới khi hai người phải rẽ hướng Bắc, ông ta sẽ cho họ một người hướng dẫn. Khi Văn ngồi sau Zhuoma trên lưng một con ngựa của người Tây Tạng, bám cứng eo cô thiếu nữ, cô hỏi Zhuoma đã xoay sở đàm phán với người Tây Tạng như thế nào. Zhuoma giải thích rằng những vật trang trí của cô xác nhận cô là thủ lĩnh của một vùng đất. Mặc dù người Tây Tạng được chia thành nhiều nhóm khác nhau, mỗi nhóm có những phong tục và văn hoá riêng, nhưng tất cả đều thờ Phật, tất cả thủ lĩnh đều có những vật trang trí giống hệt nhau, đó là biểu tượng cho quyền lực của họ. Vị thủ lĩnh nhóm người Tây Tạng ngay lập tức nhận ra địa vị cao cấp của cô. Cô rất vui mừng vì đã có thể dùng quyền lực của mình để giúp Văn, bởi vì cô nợ menba Trung Quốc sinh mạng của mình.



Đoàn người đi về phía Tây trong bốn ngày rưỡi. Sau đó vị thủ lĩnh đến bên Zhuoma và bảo họ rằng nếu họ vẫn muốn tới Thanh Hải thì đây là đường lên miền Bắc. Đoàn người vừa mới dừng lại để đóng gói đồ ăn thức uống cho hai phụ nữ thì ba người đưa tin cưỡi ngựa lao về phía họ báo rằng trước mặt có kỵ binh Trung Quốc. Vị thủ lĩnh Tây Tạng ngay lập tức ra lệnh cho thuộc hạ giấu ngựa vào bụi cây thấp ở gần đó, còn Zhuoma dẫn ngựa của hai người theo sau.



Trong bụi cây, Văn không ngăn được kích động khi đội quân Trung Quốc đi qua quá bất ngờ. Có thể Khả Quân cũng ở trong số đó. Niềm vui của cô bị dập tắt ngay bởi cơn thịnh nộ trên khuôn mặt những người Tây Tạng, và cảnh tượng mười hai con tin người Trung Quốc bị dẫn vào một đèo núi. Thật kinh hoàng khi cô nhìn thấy một đơn vị ky binh Trung Quốc đông đúc truy kích và giết vài người Tây Tạng không kịp ẩn náu. Súng nổ khắp nơi. Người ngã xuống từ lưng ngựa, máu tuôn xối xả. Văn nắm chặt tay Zhuoma, cô run lên bần bật trước cảnh tượng khủng khiếp ấy. Tay cô thiếu nữ Tây Tạng siết chặt lại.



Ánh sáng lịm dần trên bầu trời. Khi cuối cùng vị thủ lĩnh Tây Tạng ra hiệu an toàn để ra khỏi chỗ nấp thì trời đã tối như mực. Văn có thể cảm nhận thấy nỗi lo lắng trên cơ thể Zhuoma khi cô thiếu nữ thúc ngựa để theo kịp những người khác. Nhưng gió và bóng tối tiếp tục tách họ ra khỏi nhóm. Trong khi họ chật vật tiến về phía trước qua cơn bão, con ngựa đột nhiên hí một tiếng dài kinh hãi rồi hất họ khỏi lưng. Vài giây sau họ nghe có tiếng ngã uỵch một cái như thể cơ thể nó va chạm vào đáy hẻm núi. Bằng việc hất họ xuống, nó đã cứu họ thoát khỏi cái chết cầm chắc trong tay như một người nô bộc trung thành. Choáng váng, họ ngồi ôm nhau trong gió bão điên cuồng, khó lòng tin được mình vẫn còn sống. Những lời của Vương Lượng vụt qua tâm trí Văn: “Chiến tranh không cho cô thời gian nghiên cứu và cũng chẳng cho cô cơ hội thích nghi đâu.”