Thiên Táng

Chương 8 : Lão ẩn sĩ cường ba

Ngày đăng: 04:05 19/04/20


Văn, Zhuoma và Thiên An Môn đi về phía Nam. Trời đã sang hè khi họ đến được vùng được gọi là “Bách Hồ” và nhìn thấy hồ Zhaling rộng mênh mông, trải dài như biển cả bên dưới núi Anyemaqen. Gió hiu hiu thổi, ánh nắng khiến họ cảm thấy ấm áp và thơ thới. Khi đến gần hồ, họ ngạc nhiên thấy có rất nhiều ngôi lều dựng dọc ven bờ nước. Văn biết rằng dân du mục hiếm khi tụ họp đông người về một chỗ. Hẳn phải có một lễ lạc quan trọng nào đó thì mới khiến những người này đến đây. Hiện đang là mấy tháng hè, bò cừu béo tốt và người Tây Tạng cũng có thể thoải mái giao du với nhau luôn.



Họ tự dựng lều và buộc ngựa. Chiều hôm đó, Thiên An Môn đi tha thẩn quanh các lều khác, đổi một số món trang sức Zhuoma giữ gìn suốt bao năm qua để lấy thức ăn. Khi quay về, ông kể rằng nghe người ta nói hai hôm nữa sẽ có một buổi trình diễn ca kịch trên lưng ngựa. Ý nghĩ về một vở ca kịch diễn trên lưng ngựa khiến Văn tò mò. Zhuoma nhớ đã xem những vở ca kịch như vậy từ lúc còn bé. Bà giải thích rằng các vở đó được diễn bởi các lạt ma được huấn luyện đặc biệt, họ mặc lễ phục và cưỡi ngựa. Chẳng có thoại hay hát gì hết, mà chính những mẫu hình do các lạt ma tạo ra khi cưỡi ngựa trong tiếng nhạc sẽ kể ra câu chuyện.



Đêm hôm đó, mặc dù mỏi nhừ xương vì đi xa, Văn không sao ngủ được. Bà cứ trằn trọc bởi tiếng ai đó hát ở đằng xa nghe không rõ. Đó là một bài hát bà chưa nghe bao giờ. Bà tự hỏi có phải là do mình tưởng tượng ra không: Zhuoma và Thiên An Môn vẫn ngủ ngon lành.



Sáng hôm sau, khi Văn kể cho Zhuoma nghe về tiếng hát hồi đêm, Zhuoma liền nói các cụ già thường bảo đó là những giọng ma quỷ vang lên từ phía núi. Văn nghe lành lạnh dọc sống lưng.



Hai người phụ nữ quyết định sẽ dành suốt ngày để thăm thú cảnh hồ trên lưng ngựa, thế nên họ khởi hành sớm, mang theo một túi da đựng nước. Khi cưỡi ngựa về phía Đông dọc theo ven hồ, họ quan sát những con chim tìm thức ăn và chơi đùa bên mép nước lấp lánh. Vài đám mây mỏng lướt trên bầu trời xanh ngắt và những con chim từ trên cao bổ xuống nối liền trời với đất. Khung cảnh khiến Văn nhớ về đồng bằng châu thổ sông Dương Tử, về dòng sông chảy qua thị trấn quê bà, về hồ Động Đình và Đại Hồ với những con thuyền dập dềnh cùng những cây cầu nhỏ làm bằng đá và gỗ. Phần nào đắm mình trong suy nghĩ, bà kể cho Zhuoma nghe về cái ngày bà và Khả Quân đua thuyền giấy trên Đại Hồ. Thuyền của Văn hóa ra lại dong buồm chạy thẳng vào chính giữa hồ, trong khi thuyền của Khả Quân cứ quay vòng vòng một chỗ. Thật lạ là ở Tây Tạng, vuông giấy nhỏ dùng để xếp một chiếc thuyền giấy còn đắt hơn cả một bữa ăn.



Zhuoma kéo dây cương. “Chị có nghe tiếng người hát không?”



Khi tiếng lóc cóc vó ngựa của họ đã dừng, âm thanh nổi lên rất rõ: quả là có một giọng người, một giọng đàn ông đang hát một giai điệu buồn. Zhuoma nhìn thấy hai cô gái ở gần đó đang gánh nước, liền thúc ngựa về phía họ.



“Các cô có nghe tiếng hát kia không?” bà hỏi.



Các cô gật đầu.



“Các cô có biết là ai không?”



Người lớn tuổi hơn trong hai cô gái chỉ về phía một chấm nhỏ xíu ở phía bên kia hồ.



“Ấy là Lão Ẩn sĩ Cường Ba,” cô nói. “Ngày nào ông ấy cũng hát ở đó. Khi nào đi gánh nước cháu cũng nghe. Mẹ cháu nói ông ấy là thần gìn giữ hồ này.”



Hai người phụ nữ thúc ngựa lại gần người hát hơn, nhưng mặc dù đã cưỡi ngựa đi được hai tiếng đồng hồ, song hồ quá rộng đến nỗi nhà ẩn sĩ dường như vẫn còn ở rất xa. Họ không sao nhìn thấy mặt ông, chỉ thấy bộ quần áo rách tả tơi của ông bay phấp phới trong gió. Từ đằng xa, tảng đá lớn nơi ông ngồi trông như đang trôi bồng bềnh giữa mặt nước. Khi đến gần hơn, họ thấy tảng đá nằm ở cuối một doi đất nhỏ nhô ra hồ.



“Ông ấy hát gì vậy?” Văn hỏi Zhuoma.



“Nghe như là một phần của đại truyền thuyết của Vua Gesar[13],” Zhuoma nói. “Ngày mai người ta diễn kịch trên lưng ngựa cũng là về câu chuyện này. Truyền thuyết này đã được lưu truyền qua nhiều thời đại, từ người kể chuyện này tới người kể chuyện khác. Đó là câu chuyện dài nhất trên thế giới. Mặc dù ở Tây Tạng ai cũng biết câu chuyện, nhưng người vùng này đặc biệt yêu thích nó là bởi chính ở đây, nơi nguồn của Hoàng Hà, Vua Gesar đã tạo dựng vương quốc của người.”



Zhuoma nghĩ rằng có lẽ đi từ phía bên kia hồ sẽ dễ tới được chỗ nhà ẩn sĩ hơn nên đề nghị hôm khác họ sẽ thử. Khi ruổi ngựa quay về, bà kể cho Văn nghe đôi chút về Vua Gesar.



Gesar ra đời trong gia tộc cai trị vương quốc cổ Linh. Lúc nhỏ ngài dũng cảm và khéo léo khác thường. Nhưng khi ngài đủ tuổi làm vua, ông chú Trothung[14] của ngài muốn tiếm ngai vàng nên buộc Gesar và mẫu thân ngài phải đi đày ở một thung lũng nơi đầu nguồn Hoàng Hà. Thung lũng đó là một chốn hoang vu tăm tối lạnh lẽo không có cả ánh mặt trời lẫn ánh trăng, lại đầy quỷ dữ. Gesar và mẫu thân ngài thuần hóa các linh hồn ác và khuất phục lũ ngạ quỷ, khép nước non cây cỏ vào trật tự, biến thung lũng thành một thiên đàng màu mỡ cho những người chăn nuôi, nơi các đồng cỏ sum suê chật ních bò, ngựa và cừu. Sau đó trời cho bão tuyết và băng giá xuống để trừng phạt Trothung, khiến cho không ai còn sống được ở vương quốc Linh nữa. Dân chúng nước Linh khẩn cầu Gesar cho họ đến chỗ ngài, và ngài vui vẻ giúp sáu bộ lạc Linh định cư ở đầu nguồn Hoàng Hà. Vì lý do này, tất cả những người Tây Tạng sống ở thung lũng này đều tự coi mình là người của vương quốc Linh và là hậu duệ của Gesar.



Đến khi hai người phụ nữ về tới lều, Thiên An Môn đã xây xong một cái bếp lò bằng mấy tảng đá to, trên bếp là một cái nồi tỏa ra mùi thịt ngon lành. Ông cho Zhuoma biết ông đã kiếm được nửa con cừu và nấu theo kiểu Trung Quốc.




“Ông đã bao giờ làm lễ Thiên táng cho một người Trung Quốc chưa?” bà hỏi.



Vị chủ lễ nhìn bà với vẻ tò mò. “Chưa bao giờ,” ông đáp. “Nhưng Lão ẩn sĩ Cường Ba, vị ngồi bên kia hồ Trát Lăng ấy, vẫn thường hát về một chuyện như thế.”



Quay lại hồ Trát Lăng, ba người bạn dựng lều gần nơi Cường Ba thường hát để họ có thể hỏi những người đến đó lấy nước xem có ai biết chuyện gì xảy ra với vị ẩn sĩ không. Vài người bảo họ rằng Cường Ba đã ra đi trên sóng, vừa đi vừa hát. Người khác thì nói tiếng hát của ông khiến những linh hồn đến với ông và mang ông lên trời. Nhưng ba người không chịu tin rằng Cường Ba đã ra đi mãi mãi mang theo niềm hy vọng của họ.



Hầu như tuyệt vọng, họ quyết định đi dâng tế cho một hòn đá mani mong rằng nó sẽ cho họ vận may. Ngay khi họ đang chuẩn bị đi, một người đàn ông cao lớn phi ngựa tới chỗ lều họ.



“Các vị là những người đang tìm Lão Ẩn sĩ Cường Ba phải không?”



Cả ba người cùng gật đầu xác nhận, tất cả đều sửng sốt.



“Vậy thì đi với tôi.”



Lời nói chưa dứt, người đó đã cho ngựa quay đầu lại rồi quất ngựa đi. Không kịp dừng lại để suy nghĩ, Văn và những người khác vứt khăn gói, nhảy ngay lên ngựa đuổi theo người lạ.



Chẳng mấy chốc họ tới một căn lều. Họ trao cương ngựa của mình cho một phụ nữ đang đợi ở ngoài lều rồi theo người đàn ông vào trong. Cạnh bếp lò họ thấy có người đang nằm ngủ, quấn mền bông kín mít. Chỉ nhìn thấy khuôn mặt nhợt nhạt của người đó.



“Cường Ba!” Văn thì thầm. Dựa vào tiếng thở của nhà ẩn sĩ, bà biết rằng phổi của ông rất yếu.



Người đàn ông Tây Tạng ra hiệu bảo họ hãy im lặng, rồi đưa họ ra ngoài. Ông đoán ra qua vẻ mặt khắc khoải của họ rằng họ muốn hỏi điều gì, nên ông bảo họ hãy ngồi xuống cỏ.



“Đừng lo, tôi sẽ giải thích. Vào một buổi sáng cách đây một tuần hay khoảng đấy, hai đứa con gái tôi đi lấy nước chỗ hồ về kể rằng Lão Ẩn sĩ Cường Ba cứ chỉ ngồi đó mà không hát. Vợ tôi thấy chuyện này không bình thường nên bảo tôi đích thân đi xem sao. Thế là ngay hôm đó, tôi ruổi ngựa cùng hai con gái đến ven hồ. Như chúng nói, ẩn sĩ ngồi đó im lặng, đầu gục sang bên. Tôi lại gần ông, gọi to tên ông, nhưng ông không trả lời hay làm gì để đáp lại cả. Ông có vẻ không khỏe, nên tôi cố lay ông, nhưng ông chỉ rũ xuống. Tôi thấy cả hai mắt ông nhắm nghiền, trán và tay ông nóng bừng, thế là tôi cho ông lên ngựa mang về đây. Chúng tôi đã thử cho ông uống ít thảo dược, nhưng xem ra không tác dụng mấy. Tuy đã bớt sốt nhưng ông cứ ngủ li bì và chẳng nói gì cả. Chúng tôi đang định đưa ông tới tu viện gần đây cho các lạt ma chữa.



“Hôm nay, khi con gái tôi đi lấy nước về, nó bảo nó nghe nói các vị lưu lại ở ven hồ đã mấy ngày nay, gặp ai cũng hỏi về vị ẩn sĩ, thế nên tôi đến tìm các vị.” Ông liếc vào trong lều. “Mặc dù ở đây ai cũng yêu mến và kính trọng Lão Ẩn sĩ Cường Ba, nhưng không ai biết ông ấy từ đâu tới. Chúng tôi chỉ biết rằng hai mươi năm trước, ông xuất hiện ở đây cứ như nhờ phép màu và bắt đầu vừa trông nom hồ vừa hát về vua Gesar, Núi Anyemaqen và các vị thần vĩ đại của Tây Tạng. Đôi khi ông cũng hát về chuyện một vị menba người Trung Quốc đã làm cho giao tranh giữa người Trung Quốc và người Tây Tạng ở vùng này chấm dứt. Những người ra hồ lấy nước đều mang thức ăn cho ông, nhưng không ai trong chúng tôi biết ông sống ở đâu. Thỉnh thoảng người ta thấy ông trò chuyện với các lạt ma ở tu viện gần đây. Vài người nói các lạt ma biết tất cả về quá khứ của ông, nhưng ông không chắc. Chúng tôi chỉ đến chỗ “Bách Hồ” vào mùa xuân và mùa hè thôi.”



Mặc dù Zhuoma cố thuyết phục người đàn ông rằng ông nên cho phép Văn vào khám cho vị ẩn sĩ, nhưng ông cứ khăng khăng bảo là ông muốn đưa vị ẩn sĩ tới tu viện gần đó. Ông cũng không muốn cho Zhuoma hay Văn đi cùng bởi phụ nữ không được phép vào trong tu viện mà tu viện này cũng không có nhà nghỉ cho khách. Sau một cuộc bàn luận ngắn, Văn và Zhuoma quyết định rằng Thiên An Môn sẽ đi theo Cường Ba trong khi họ sẽ dựng lều gần đây chờ tin tức.



Nhiều ngày sau Thiên An Môn mới quay lại. Văn không thể làm gì khác ngoài chờ đợi. Bà ngồi trên bãi cỏ ngoài lều, khẽ nói đi nói lại với chính mình “Án ma ni bát mê hồng”. Zhuoma đem đồ ăn cho Văn và đêm xuống thì giúp bà dọn giường. Thời gian còn lại, bà để mặc Văn đắm mình trong suy nghĩ.



Khi rốt cuộc Văn cũng thấy ngựa của Thiên An Môn ở đằng xa, bà đứng dậy. Ông ruổi ngựa tới thẳng chỗ bà và, không xuống ngựa, trao cho bà một cái bọc gói trong mấy dải vải màu vàng.



“Đã nhiều năm nay,” ông nói, “Lão Ẩn sĩ Cường Ba cất giữ cái này ở tu viện. Về chuyện bên trong nó có những gì, ông chỉ biết rằng cần phải đưa chúng cho một người phụ nữ người Trung Quốc quê ở Tô Châu tên là Thư Văn. Ông ấy nhiều lần cố tìm người thay mình mang chúng tới Tô Châu ấy, nhưng không một lữ khách nào giúp được cả. Phổi ông ấy bây giờ khá hơn một chút. Ông đã kể cho tôi về những gì ông đã trải qua. Tôi nghĩ cái bọc này chắc hẳn là cho chị.”